Top 10 bài thơ nổi bật của nhà bác học Lê Quý Đôn
Nội dung bài viết
1. Bài thơ: Đề Từ Thức động
Đề Từ Thức động
Văn đạo thần tiên sự diểu mang,
Bích Đào động khẩu thái hoang lương.
Càn khôn nhất hạt cùng Từ Thức,
Vân thuỷ song nga lão Giáng Hương.
Thạch động hữu thanh khao hiểu nguyệt,
Diêm điền vô vị nát thu sương.
Thế nhân khổ tác Thiên Thai mộng,
Thuỳ thức Thiên Thai diệc hí trường.
Dịch nghĩa
Nghe chuyện tiên nhân tựa giấc mơ hư ảo,
Cửa động Bích Đào giờ đã hoang tàn.
Từ Thức một mình đi tìm cảnh tiên,
Mây nước mờ, mắt Giáng Hương đợi mong dài lâu.
Trăng lên trên động đá, tiếng gõ vang vọng,
Sương thu thấm bãi muối, muối trở nên nhạt.
Người đời mê mải giấc mộng Thiên Thai,
Ai biết Thiên Thai chỉ là trò đùa đời.
Bình luận:
Động Từ Thức, hay còn gọi là động Bích Đào, nằm tại xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn, Thanh Hóa, là danh thắng nổi tiếng gắn liền với truyện Từ Thức gặp tiên trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Trên vách động vẫn còn khắc hai bài thơ chữ Hán, một của Lê Quý Đôn được khắc trên đá năm 1905, một của chúa Trịnh Sâm đề năm 1771.

2. Bài thơ: Gia Cát Lượng
Gia Cát Lượng
Rồng nằm ngạo nghễ khẽ ngân nga,
Biết ơn sâu sắc lòng thế nào?
Hai lần xuất quân quyết tâm rõ,
Tám chiến lược sắp đặt càng cao.
Ba lần phân tranh gặp vận hội,
Năm trượng dài bỗng tối mờ sao?
Miếu xưa nay vẫn còn đó,
Tấc lòng thành kính biết dường bao!
Nguồn: Trần Trung Viên, Văn đàn bảo giám, NXB Văn học, 2004

3. Bài thơ: Dũng Liệt giang thượng
Dũng Liệt giang thượng
Đường cái quan men theo sông quanh co
Gió nhẹ phẩy sóng, xanh biếc dập dờn
Nhìn xa núi Tam Đảo vút trời cao
Cúi nhìn đàn sơn tiễn đưa đón mời.
Dịch nghĩa
Con đường cái quan uốn lượn theo dòng sông
Gió nhẹ lướt qua tạo nên những làn sóng xanh biếc
Núi Tam Đảo sừng sững chọc trời
Các ngọn núi xung quanh như tiễn đưa, đón rước lặng lẽ.

4. Bài thơ: Độ Lương Phúc tiểu giang
Độ Lương Phúc tiểu giang
Con sông nhỏ uốn ngang dòng Nguyệt giang,
Túp am tranh nằm bên đầu bến cũ.
Trời rộng mây yên, sắc thu lung linh,
Núi Tam Đảo trước mắt thu gọn trong tầm nhìn.
Dịch nghĩa
Sông Lương Phúc thuộc huyện Thiên Phúc, thành phố Bắc Ninh.
Trích: Thơ Lê Quý Đôn (Tuyển chọn từ Quế Đường thi tập), Ty Thông tin Văn hóa Thái Bình, 1976.

5. Bài thơ: Gia Cát Lượng
Gia Cát Lượng
Rồng nằm vươn mình ngân nga khúc hát,
Tấm lòng cảm ơn sâu sắc biết bao!
Hai lần xuất quân, quyết tâm vững bền,
Tám chiến lược sắp đặt càng cao.
Ba lần phân tranh trong lúc đương thế,
Năm trượng dài bỗng thoáng tối mờ.
Miếu xưa nay vẫn còn đó đóa lòng,
Tấc lòng thành kính biết là bao!
Nguồn: Trần Trung Viên, Văn đàn bảo giám, NXB Văn học, 2004

6. Bài thơ: Du Bích Đào động
Du Bích Đào động
Truyền thuyết về quần tiên trên biển cả huyền bí,
Động Bích Đào cửa hang mênh mông hoang sơ.
Trời đất chỉ một hạt bên Từ Thức,
Giáng Hương già nua bên mây nước đôi con ngỗng.
Tiếng đá vang vọng dưới trăng mờ khẽ gõ,
Muối sa thấm sương thu nhạt hương.
Nhân gian đau khổ như mộng Thiên Thai,
Ai ngờ Thiên Thai chỉ là trò chơi dài.
Động Bích Đào còn gọi là động Từ Thức, tọa lạc tại huyện Nga Sơn, Thanh Hóa.
Nguồn: Việt Nam bách gia thi, NXB Văn hóa Sài Gòn, 2005

7. Bài thơ: Trú Hoà Lạc
Trú Hoà Lạc
Xa xa chỉ lối làng nhỏ phương xa
Ra khỏi hiểm trở đến đồng bằng rộng
Trạm đường nhiều mái tranh chen lợp
Nhà người ta nửa vách dựng tre xanh
Chim mỏi cánh bay về rừng thưa
Vượn lạnh lùng bước từ vách đá cao
Năm tháng mỏi mệt vì gửi thư tín
Tấm lòng người dân không nỡ nói ra
Dịch nghĩa
Phố làng xa xa hiện ra từ bên kia,
Từ vùng hiểm trở qua bãi đồng bằng phẳng lặng.
Trên đường nhiều mái tranh mọc chen nhau,
Người dân dựng nửa nhà bằng vách tre.
Chim mệt mỏi tìm về rừng thưa lẻ bóng,
Vượn lạnh lùng rời vách đá dựng đứng.
Năm nào cũng khổ vì chuyền thư tín,
Người dân thương cảm mà chẳng nói thành lời.
Nguồn: Thơ Lê Quý Đôn (Tuyển một số bài trong Quế Đường thi tập), Ty Thông tin văn hóa Thái Bình, 1976

8. Bài thơ: Rắn đầu rắn cổ
Rắn đầu rắn cổ
Không phải nhút nhát mà giống nhà!
Rắn đầu lười học chẳng tha cho ai.
Thẹn trước đèn hổ lửa đau lòng mẹ,
Nay gầm thét, giận dữ làm cha buốt lòng.
Lời nói lẽo mép vẫn hay lừa dối,
Vết roi da khắc sâu trên lưng.
Từ nay Trâu Lỗ hứa chăm học hơn,
Không để mang tiếng dòng họ xấu xa!
Lời bình:
Chuyện rằng, một viên thượng thư đến nhà ông Lê Trọng Thứ, trên đường gặp Lê Quý Đôn, cậu vô tình thất lễ. Khi đến nhà, Lê Trọng Thứ mời con ra mắng và đánh đòn. Viên quan vì thấy cậu thông minh nên tha tội với điều kiện phải ứng khẩu bài thơ tạ lỗi. Đề bài: "rắn đầu rắn cổ" – ám chỉ cậu cứng đầu, lười học. Lê Quý Đôn nhanh trí dùng từ "rắn" khéo léo xuyên suốt bài thơ, từ rắn liu điu, rắn đầu, rắn hổ lửa, rắn mai gầm, rắn ráo, rắn thằn lằn, rắn hổ trâu, rắn hổ mang và kết bài bằng khát vọng học hành của Khổng Tử, Mạnh Tử, khiến viên quan hết sức ngưỡng mộ.

9. Bài thơ: Mẹ ơi con muốn lấy chồng
Mẹ ơi con muốn lấy chồng
(Hạn vần: Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao)
Con trình mẹ, chẳng phải dại dột đâu!
Phải chọn chồng kỹ, mới yên lòng gái.
Gặp nhau lòng đẹp, duyên phận thuận,
Mẹ suy nghĩ, sao gia đình mới êm; con ngẫm lòng, mong vận may đến.
Như sen hé nụ, đào tơ xuân thì,
Thướt tha yếm thắm, môi son má hồng.
Đêm ngày giữ gìn, chờ trăng động đào,
Ai lơ là nên tình nhạt phai.
Thoi đưa yến bay, bóng câu lướt qua,
Tiếng hoàng hạc vang, mơ hồn bướm bay.
Lo sợ người đời cười chê,
Thật công phận gái, dẫu nghe lời sói.
Con nghĩ thế, xin mẹ lắng nghe.
Cũng lứa tuổi, bạn đã có chồng,
Tại sao mình mãi vẫn không?
Chẳng thanh tĩnh tu đà thành Phật,
Dẫu chính chuyên, thác cũng hóa ma.
Trời đất tạo vật, sao con còn chần chừ?
Cớ sao cứ ngần ngại không dám theo?
Vui xuân không đợi, sợ hồng nhan phai.
Dẫu sang hay hèn, phận gái có người yêu.
Xin mẹ bằng lòng, cho con vững bước,
Muốn lấy chồng hiền, rể khá sang.
Chẳng mong giàu sang, chỉ cần hạnh phúc,
Ngày gặp nhau, lòng đã an yên.
Nhớ sông Hán, gặp gỡ bạn bè,
Ngắm vẻ vang, phận gái chờ duyên.
Lòng mẹ mong trăng tròn, hoa nở,
Nỗi u tình biết tỏ cùng ai?
Con mong bằng chị bằng em,
Có đôi có lứa, chẳng ước gì hơn.
Xin mẹ đừng cấm, để con tự lựa,
Con muốn lấy chồng, để đời yên vui.
Chuyện duyên số trời định, con mong mẹ hiểu,
Hãy để con sống theo ý mình.

10. Bài thơ: Thành Cổ Lộng
Thành Cổ Lộng
Vạn vật đổi thay qua bốn trăm năm,
Bước qua cầu xuân rợp bóng đậu thơm.
Bức tường xưa gột rửa hận Trần Vương,
Thảm cỏ xanh khó già Mộc Thạnh tu.
Đêm vàng độc ác gió canh cổ kiếm,
Trăng lạnh vắt xuống lâu tàn cháy.
Phong cảnh quê nhà ai còn nhớ nhung?
Thuấn Nghiêu xưa chỉ bấy chín châu!
Thành Cổ Lộng là công trình do tướng Mộc Thạnh nhà Minh xây dựng tại Ninh Bình.

Có thể bạn quan tâm

Đánh giá chi tiết về Kem dưỡng ẩm Neutrogena Hydro Boost Gel-cream: Liệu sản phẩm này có thực sự đáp ứng được nhu cầu dưỡng ẩm cho da khô?

Cách xử lý khi lên cơn hen suyễn

Hướng dẫn cách bóc băng vết thương dạng lỏng hiệu quả

Cách Chữa Lành Ngón Chân Bị Gãy Hiệu Quả

Top 8 khu căn hộ lý tưởng để an cư và đầu tư tại Quận 9, TP.HCM
