Top 10 bài thơ tiêu biểu nhất của nhà thơ Phan Bội Châu
Nội dung bài viết
1. An Mai Quân
Phiêu bồng ngã bối các tha hương,
Tân khổ thiên quân phận dị thường.
Tính mạng kỷ hồi tần tử địa,
Tu mi tam độ nhập linh đường.
Kinh nhân sự nghiệp thiên đào chú,
Bất thế phong vân đế chủ trương.
Giả sử tiền đồ tận di thản,
Anh hùng hào kiệt vẫn coi thường.
Bài thơ này được trích từ phần cuối tác phẩm Ngục trung thư của Phan Bội Châu. Theo lời tác giả, ông sáng tác để khích lệ Mai Lão Bạng (1866-1942), một linh mục tham gia Việt Nam Quang phục hội cùng bị giam cầm.

2. Chơi Xuân
Quân không thấy phương Nam xuân tự cổ nhiều danh sĩ,...
Đã chơi xuân há quản nghĩ chi chi:
Lúc ngâm nga đảo lộn cổ kim đi,
Tám cõi gom về trong một túi.
Thơ rằng:
Nước non Hồng Lạc còn đây mãi,
Mặt mũi anh hùng há chịu ri!
Giang sơn tô điểm dáng nam nhi,
Sinh thời thế phải xoay nên thời thế.
Phùng xuân hội, may ra cũng dễ,
Nắm địa cầu vừa một tí con con!
Đạp toang hai cánh càn khôn,
Đem xuân vẽ lại trong non nước nhà!
Vai mang nặng gánh sơn hà,
Đã chơi, chơi nốt, ố chà chà xuân!
Trước 1905
Nguồn: Chương Thâu, Phan Bội Châu toàn tập (tập 1), NXB Thuận Hóa, 1990, tr. 237-238; dẫn lại từ Đặng Thai Mai, Văn thơ Phan Bội Châu, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1959, tr. 113


3. Thất Bại Là Mẹ Thành Công
Tay ba lần gãy mới hay thuốc quý.
Trăm trận từng qua mới rõ tướng tài.
Chẳng trải thất bại, đâu thành công đến.
Anh hùng muôn thuở thua mới nên danh.
Cờ vì lỡ nước, bàn đầu chịu thua.
Toan sâu tính kỹ, bàn sau ắt thắng.
Sóng gió dập dồn, chí càng thêm vững.
Núi cao hiểm trở, quyết vượt cho qua.
Vấp cây lạc đá, thợ đường chỉ lối.
Lạc hướng sai phương, thầy sáng mở đường.
Thất bại càng nhiều, thành công càng lớn.
Chớ vội nản lòng, càng bền chí hơn.
Ngã rồi lại dậy, muôn dặm chẳng xa.
Cứ chèo mãi bước, bờ kia sẽ tới.
Trời cao thử hỏi, gan ai sắt son.


4. Sầm Sơn
Dạo bước Sầm Sơn chẳng nỡ rời,
Tựa Bồng Lai cảnh đẹp tuyệt vời.
Non biếc trập trùng cây chen đá,
Biển ngời sóng cuộn lẫn mây trời.
Lái thuyền tất bật chèo đưa khách,
Thiếu nữ bãi xa dạo thảnh thơi.
Non nước dáng xưa còn đó mãi,
Ngậm ngùi dâu bể thoáng buồn vơi.
Khoảng năm 1902, trên đường ra Bắc kết giao đồng chí, Phan Bội Châu ghé thăm bãi biển Sầm Sơn và đề thơ. Bài thơ do cụ Nguyễn Văn Lan, 79 tuổi, xã Nam Hoà, Nam Đàn, Nghệ Tĩnh cung cấp năm 1967.
Nguồn: Chương Thâu, Phan Bội Châu toàn tập (tập 1), NXB Thuận Hoá, 1990, tr. 236


5. Mừng cụ Đoàn Tử Quang
Đoàn Tử Quang tám mươi hai tuổi,
Canh Tý niên, khí tiết vững bền.
Trên cửu trùng chiếu chỉ cầu hiền,
Già lọm khọm vẫn tên đề ứng thí.
Trường nhất vượt, trường nhì liền chí,
Trường tam qua, văn lý đủ ưu bình.
Bảng treo danh chờ xướng rạng danh,
Hương giải hai mốt hiển vinh rành rẽ.
Quan bảng trống, bạn đồng khoa vắng lẽ,
Về quê hương con cháu đón vui mừng.
Sân Lai trước rượu quỳnh rót cúng,
Già thanh cao tựa áng mây xanh.
Phong thổ đẹp, phúc đức càng lành,
Khoa trường ấy hiếm ai sánh kịp.
Thân trai đã đáng đấng anh hào,
Trung hiếu vẹn tròn, hai chữ đạo.
Việc đèn sách ai cấm chí cao,
Quyết lòng sao mã thượng cẩm y hồi.
Kẻo tóc bạc da mồi mới tiếc hoài!
Cụ Đoàn Tử Quang (1818-1928), người Phụng Công (Đức Lạc, Đức Thọ, Nghệ Tĩnh), Canh Tý 1900, 82 tuổi vẫn lều chõng đi thi, đỗ cử nhân để trọn đạo hiếu với mẹ già 98 tuổi. Sau được bổ chức Huấn đạo Hương Sơn, là tấm gương hiếm có cho lòng kiên trì học vấn và hoài bão phụng sự đời. Bài thơ Phan Bội Châu tặng cụ khi cụ đỗ Hương giải.
Nguồn: Chương Thâu, Phan Bội Châu toàn tập (tập 1), NXB Thuận Hoá, 1990, tr. 235; Tư liệu: cụ Đầu xứ Hùng (Nguyễn Mộng Lý), có tham khảo cụ Hồng Lam trong “Giai thoại khoa cử”, Tạp chí Minh Tân, Sài Gòn, số 28 (25-8-1964).


6. Vịnh Cảm Sơn
Mây khói mờ xa, đá sừng sững,
Bước lên Cảm Sơn, dạ vấn vương.
Đường đời gập ghềnh ngoài sắc tướng,
Lòng bậc hiền thần nặng nghĩa thương.
Phong nguyệt Tây Thiên còn vẳng bóng,
Sông núi Nam bang giấc vẫn nồng.
Tìm đâu hồn trung, cốt đạo nghĩa?
Tiếng chuông, tiếng đàn vọng thiền không.
Khoảng năm Thành Thái thứ 2 (1890), Phan Bội Châu ghé Cảm Sơn (Núi Nài, Đại Nài, Thạch Hà, Hà Tĩnh), nơi Nguyễn Công Trứ từng ở tuổi già, xúc cảm mà đề thơ trước lúc rời đi.
Nguồn: Chương Thâu, Phan Bội Châu toàn tập (tập 1), NXB Thuận Hoá, 1990, tr. 183; dẫn từ Hồng Liên, Lê Xuân Giáo, Hy Văn tướng công di truyện, Bộ Văn hoá giáo dục và Thanh niên, Sài Gòn, 1973, tr. 83-84.


7. Nằm gốc sung
Vận nước đẩy đưa, đành giả nghĩa vợ chồng,
Chung thân với kẻ chẳng đồng lòng,
Tạm thuận, đành xem như mất bạc,
Nào dễ để người hưởng má hồng!
Cười gượng che ngang niềm u uất,
Khóc thầm nuốt lệ bởi hai lòng.
Ngày nào duyên mới thay duyên cũ,
Cùng dắt tay nhau tát bể Đông!
Năm 1925, khi bị bắt về Hà Nội rồi bị giam lỏng ở Huế, Phan Bội Châu thường ra thuyền con dưới gốc sung bên cầu Bến Ngự hóng mát. Một lần nghe cô lái đò cất giọng hát: “Ăn sung nằm gốc cây sung, Lấy anh thì lấy nằm chung không nằm”, ông cảm hứng làm bài thơ này, khắc hoạ nỗi đau thân phận cô gái Việt bị ép duyên với kẻ ngoại bang.
Nguồn: Triệu Xuân, Vũ Bằng toàn tập (tập 4), NXB Văn học, 2006.


8. Xuất dương lưu biệt
Xuất dương lưu biệt
Là nam nhi sinh ra phải ước vọng lớn,
Thiên địa xoay vần, ai dám đứng yên?
Giữa trăm năm cuộc đời, ta phải hiện hữu,
Chẳng thể để nghìn năm sau vắng bóng ai.
Non nước đã tàn, sống còn sao không nhục?
Thánh hiền vắng bóng, sách vở đọc cũng vô nghĩa.
Nguyện theo gió dài phi qua biển Đông rộng,
Ngàn tầng sóng bạc tung bay tự do.
Bài thơ Phan Bội Châu sáng tác ngày mùng 2 tháng Giêng năm Ất Tị 1905, khi ông rời cảng Hải Phòng sang Nhật, chia tay đồng chí. Sau này bài thơ được ghi lại trong Ngục trung thư.
Nguồn:
1. Văn thơ Phan Bội Châu, NXB Văn học, 1965
2. Nguyễn Hiến Lê, Đông Kinh nghĩa thục - Chương 2, NXB Văn hóa Thông tin, 2004


9. Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông
Hào kiệt vẫn còn, phong lưu chẳng phai,
Bước chân mỏi mệt mới chịu nằm tù.
Khách lạ không nhà giữa bốn bể rộng,
Người có tội giữa năm châu xa lạ.
Dang rộng tay ôm lấy chí kinh bang,
Miệng cười tan vỡ hết thù hận riêng.
Thân này còn mãi, còn ý chí lớn,
Đương đầu nguy nan nào có ngại đâu.
Bài thơ sáng tác đầu năm 1914 khi tác giả bị quân phiệt tỉnh Quảng Đông bắt giam, như lời tự an ủi bản thân. Trích từ cuối Ngục trung thư, không có tựa, tựa đề do người sau đặt.
Nguồn: Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỉ XX, NXB Văn học, 1976


10. Bài ca chúc Tết thanh niên
Hỡi chàng trai, thức dậy đi!
Tiếng gà vừa vang bên án sáng sớm
Chim trên cành hót vang chào mùa xuân mới
Xuân ơi, liệu ngươi có hay biết?
Buồn thương hòa cùng sông núi trầm lặng,
Thẹn thay cùng trăng sáng trên cao vợi vợi.
Hai mươi năm dài trải đầy chua cay,
May còn sống để chứng ngày mai tươi sáng.
Tuổi xanh còn đó, hỡi các cô các cậu,
Trời mới đã lên, người hãy đổi thay.
Hãy mở mắt nhìn rõ vận hội mới,
Gánh vai cùng xây dựng non sông cũ.
Đi vững chãi, đứng thẳng, giữ vững chí gan,
Đoàn kết cùng nhau lập nên sự nghiệp.
Ai có trí tuệ, từ đây cố gắng hơn,
Tháo bỏ xiềng xưa, bồi dưỡng tinh thần.
Không ham chơi, không ham mặc, không ham ăn,
Đúc thép gan để dời non lấp bể,
Đổ máu nóng để xóa tan ô nhục nô lệ.
Đây mới là đổi mới, chư quân ơi!
Như lời rằng: “Ngày mới, lại ngày mới”.
Đầu xuân năm 1927, học sinh trường Quốc học và Nhà dòng Huế đến mừng tuổi Phan Bội Châu 60. Đây là bài thơ ông đáp lại. Báo Tân thế kỉ ngày 3-2-1927 đã đăng toàn văn bài thơ.
Bài thơ từng xuất hiện trong SGK Văn học 11 giai đoạn 1990-2006, nhưng bị lược bỏ khỏi SGK Ngữ văn 11 từ năm 2007.

Có thể bạn quan tâm

Những bức tranh vẽ ngôi trường hạnh phúc tuyệt vời nhất

Bí quyết thu hút chàng trai cung Thiên Bình

Các cách đổi tên file Word nhanh chóng và đơn giản

Bí quyết làm râu mực nướng muối ớt giòn ngon đúng điệu như các quán ăn nổi tiếng

Cách tạo hiệu ứng Drop Cap trong Word
