Top 10 bài thơ xuất sắc nhất của nhà thơ Tú Mỡ
Nội dung bài viết
1. Mùa xuân
Dung dăng dung dẻ
Đưa trẻ thơ đi chơi
Mùa xuân đã về
Ánh sáng tràn trề.
Đám mây bông trắng
Nổi bật giữa trời xanh
Gió đưa nhẹ nhàng
Bay xa, rộng lớn
Vườn rộng thênh thang
Cỏ non xanh mướt
Hoa đào thắm sắc
Xuân về đầm ấm
Chim hót ríu rít.

2. Ông và cháu
Làm ông không dễ,
Biết thương trẻ nhiều;
Nuông vừa phải thôi,
Dạy bảo khéo léo.
Chơi đùa hồn nhiên,
Truyện cổ kể mãi;
Kể sao hấp dẫn,
Để cháu say mê.
Gấp giấy thành người,
Thuyền mui, tên lửa,
Ngựa, chim cò cất cánh.
Làm bò cho cháu cưỡi;
Hát những bài ca mới,
Vừa dạy vừa chơi;
Khéo xử lý tình huống,
Để cháu thêm thông minh.
Con trẻ hay hỏi,
Những câu hóm hỉnh,
Ông phải tìm cách
Giải đáp thấu tình.
Ông và cháu, hai thế hệ,
Già hòa cùng trẻ,
Gia đình vui vẻ,
Đong đầy hạnh phúc!

3. ...Và ông già trẻ
Ngược đời biết bao cụ già nhí nhảnh,
Giả vờ trẻ thơ trong tâm hồn mênh mang.
Tóc nhuộm đen, muốn níu giữ thanh xuân,
Râu cạo sạch, dáng vẻ trai trẻ khoan khoái.
Đua đòi hoạt bát, ông còn khỏe mạnh,
Làm việc chậm rãi, già cũng từ tốn.
Thấy nàng như mèo gặp mỡ béo ngậy,
Năm vợ bảy thiếp vẫn chưa bằng lòng.

4. Mười thương
Một thương tóc ngôi lệch duyên dáng,
Hai thương quần trắng áo thơm mùi khăn san.
Ba thương nét trang điểm hôm sớm nhẹ nhàng,
Bốn thương hàm răng ngọc trắng muốt.
Năm thương lược Huế nhẹ nhàng cài đầu,
Sáu thương màu ô lục thanh thanh thiên nhiên.
Bảy thương bạc trắng cũng đầy tiền bạc,
Tám thương chút nữ quyền khẽ hé môi.
Chín thương cô vẫn thủy chung bên nhà,
Mười thương... chỉ còn mình ta thương ta thôi.
Nguồn: Tú Mỡ, Giòng nước ngược - Tập I, Trung Bắc Tân Văn, 1934

5. Thề đi
Vì tiền bạc mà kiện cáo nhau,
Thần công lý bỗng như mù lòa.
Mượn nợ, vay mượn, giấy tờ mờ ảo,
Người kêu chưa giả, kẻ thưa giả rồi.
Rắc rối chồng chất, lộn xộn náo loạn,
Quan tòa cũng chẳng rõ trắng đen.
Các ngài đành chịu bó tay,
Muốn tìm manh mối phải nhờ đến thần quyền.
Phía bị, phía nguyên lên đền Hàng Trống,
Tuyên thệ lời thề minh bạch.
Người ngay thì Thánh cho về,
Kẻ gian thì Thánh sẽ phạt nghiêm minh.
Đền Hàng Trống, ôi các ngài ơi,
Hãy nghe tôi cười khẩy cho rồi.
Đền vừa bị trộm quấy nhiễu,
Một phen đảo điên, hòm tiền mất sạch.
Thánh Bà có linh thiêng thật chăng?
Hay chỉ là trò ảo mộng phù phiếm?
Việc thề thốt, ai mà tin,
Bọn gian trá lừa lọc đời thường.
Từ xưa, kẻ gian dối muôn phương,
Vẫn sống an nhiên, ung dung như thường.
Thần linh ơi, chuyện hoang đường!
Thề thốt qua loa, ai dám tin?
Nguồn: Báo Ngày nay, số 89, ngày 12-12-1937

6. Tương tư
Vì ai nên nỗi nhớ da diết trong lòng,
Mối tơ tình vẫn mãi vấn vương.
Sáu khắc mơ màng bóng hình người ngọc,
Năm canh thao thức tưởng bóng người vàng.
Ruột tằm vò xơ rối chín khúc,
Giấc mộng năm canh dài dằng dặc.
Muốn nhắn gửi ai, ai gửi lại giúp,
Mòn mỏi đuôi mắt dõi sông Tương.
Nguồn: Tú Mỡ toàn tập - Tập I, NXB Văn học, 1996

7. Ông cụ non
Nhớ ngày còn nghèo khó, chưa có danh phận,
Trí tuệ anh rộng lớn, chẳng hổ thẹn với phái nam.
Bàn tính những công trình, lợi dân ích nước,
Muốn lưu danh sơn hà, thỏa mãn tâm nguyện.
Giờ an nhàn hưởng lộc, yên tâm ấm no,
Bỏ hết chí lớn xưa, trí tuệ lặng lẽ.
Khoác áo phú quý, chủ nghĩa thanh nhàn,
Đội mũ che tai, dửng dưng cuộc đời.
Bốn buổi đi về, ăn no rồi ngủ say,
Chỉ chuyện bếp nước, chẳng bận tâm nghe.
Giao du non bộ, uốn cành cổ thụ,
Từ trưa đến chiều, mơ màng như hồn ma.
Say rượu ngâm thơ, say sưa phấn khích,
Như vật cổ hủ, xác sống trong mộng mơ.
Người giàu có càng phải trau dồi tâm trí,
Anh vừa nếm phong lưu, sao vội bỏ cuộc?
Non bộ kia hãy cất đi,
Quê hương Việt Nam thật xinh đẹp.
Thắt túi thơ lại,
Bỏ chai rượu xuống,
Chờ đến tuổi sáu bảy mươi.
Nguồn: Việt Nam thi nhân tiền chiến, Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng, NXB Xuân Thu, 2000

8. Thương ông
Ông bị đau chân, sưng tấy khó nhọc,
Đi chống gậy, bước khập khiễng lên thềm.
Nhìn ông nhăn nhó, Việt chạy nhanh lại,
Âu yếm bảo: “Ông vịn vai cháu,
Cháu đỡ ông lên.”
Ông bước lên thềm, lòng vui rộn rã,
Quẳng gậy xuống, quên hết đau đớn,
Ôm cháu xoa đầu khen: “Hoan hô con bé!
Bé thế mà khỏe, vì nó thương ông.”
Đôi mắt trong sáng, Việt thủ thỉ:
“Ông đau lắm phải không?
Khi nào ông đau,
Nhớ lời bố cháu dạy,
Nhắc đi nhắc lại:
- Không đau! Không đau!
Dù đau đến đâu, sẽ khỏi ngay tức thì.”
Dù chân còn nhức, ông phì cười nói:
“Ừ, ông theo lời, thử xem có hiệu nghiệm.”
Ông nói liền: “Không đau! Không đau!”
Rồi gật đầu: “Khỏi rồi, tài thật!”
Việt cười thích chí: “Cháu đã bảo mà!”
Móc túi ra: “Biếu ông cái kẹo!”
Nửa đầu bài thơ từng được trích giảng trong sách giáo khoa tiểu học nhiều năm.
Nguồn: Định Hải, Hương cốm, NXB Kim Đồng, 1975

9. Khóc người vợ hiền
Bà Tú ơi! Bà đã ra đi thật rồi sao?
Tôi cứ ngỡ là cơn mơ ác,
Tỉnh dậy chẳng thấy bóng dáng đâu,
Không còn hình ảnh thùy mị, dịu dàng.
Dù tuổi già gần bảy mươi,
Bà vẫn khỏe mạnh, vui tươi,
Nhanh nhẹn như thuở xuân xanh.
Nhìn từ phía sau, tưởng bà thiếu nữ trẻ trung.
Vậy mà cái chết bất ngờ,
Cướp đi bà - người vợ hiền dấu yêu,
Năm mươi năm gắn bó bền chặt,
Gia đình hạnh phúc, ấm êm trọn vẹn.
Tôi may mắn có bà vợ thuần hậu,
Chúng ta cùng cảnh nghèo,
Lấy chữ yêu làm nền tảng gia đình.
Nhớ những ngày bà nằm bệnh,
Bà vẫn thủ thỉ bên tôi:
“Nếu tôi chết, ông sẽ khổ,
Bởi câu xưa rằng:
Con cái nuôi cha không bằng vợ chăm chồng.”
Hãy yên lòng, bà ơi,
Giấc nghìn thu an yên cho hồn bà,
Bà đi rồi có con dâu con cháu
Vẫn tận tâm chăm sóc bố già.
Tôi đau khổ vì thiếu bà,
Nhà cửa vắng lặng,
Khổ khi thức giấc nửa đêm,
Bên giường trống trải một mình.
Khổ khi nhớ lại những ngày xưa,
Chén trà thơm mời nhau uống,
Giờ chẳng còn bóng dáng bà,
Bàn thờ vắng lặng, sầu đầy ngập tràn.
Khổ khi ra sân ngắm vườn thênh thang,
Bà khuất núi rồi,
Quả cau tươi, lá trầu vàng ai chăm?
Khổ nhìn chiếc cơi trầu còn đó,
Đã khô trầu, khô vỏ, khô cau,
Ba thước đất phủ đầy cát bụi,
Môi không còn nhai trầu đỏ tươi.
Ngẫm nghĩ tuổi già sung sướng,
Tưởng vợ chồng hưởng bên nhau dài lâu,
Chẳng ngờ số phận nghiệt ngã,
Bà đi, để lại tôi bơ vơ, sầu thảm.
Ôi! Duyên phận đến thế là hết,
Năm mươi năm yêu thương thắm thiết!
Bà đi trước, tôi theo sau,
Chỉ biết tạm biệt, nuốt nỗi đau, gượng vui.
Bà đi rồi, tôi vẫn phải sống,
Công việc đời còn dang dở,
Bao giờ hoàn thành nhiệm vụ,
Sẽ về bên bà nơi cực lạc…

10. “Phở” đức tụng
Trong muôn món “quân tử vị”,
Phở là món quà quý trần gian.
Vài đồng bạc, không quá đắt tiền,
Hòa quyện đủ vị: ngọt, bùi, thơm, béo, bổ.
Bánh cuốn, thịt bò, nước dùng mỡ đậm đà,
Rau thơm, hành củ thái tỉ mỉ.
Nước mắm, tiêu, dấm, ớt điểm thêm,
Khói nghi ngút bay lên thơm ngát mũi.
Tựa chạm đến ruột gan, phổi,
Khơi dậy cơn đói của bao người.
Dẫu sơn hào hải vị sánh bằng,
Bát phở vẫn khiến lòng ấm áp.
Phú quý hay bần tiện đều hỏi,
Ai nếm chưa từng say mê?
Người thầy thông minh khuyên dậy sớm về trưa,
Phở điểm tâm ngon, chắc bụng lạ thường.
Thợ thuyền lao động mệt nhọc,
Bát phở no lòng đỡ gian nan.
Nhà thơ đêm thức, bát phở nóng,
Gỡ rối tâm trí, đỡ băn khoăn.
Đào kép, kỹ nữ cũng biết,
Phở làm đầu vị giải sầu.
Phở bổ dưỡng như thuốc thang,
Quế, phụ sâm, nhung chẳng bằng đâu.
Bổ âm dương, phế, thận, can, tì,
Bổ ngũ tạng, tứ chi, bát mạch.
Người lao động nghèo khổ coi là thuốc vô song.
Vương tôn quý tộc chưa từng đủ món nếu thiếu bát phở.
Đừng chê phở kẻo bị lầm,
Ba-Lê cũng phải đón phở sang.
Phở hòa quyện cùng cao lương mỹ vị,
Ngon, rẻ, quán xá vẫn đông khách.
Sống đời nếu không ăn phở,
Đến lúc ra đi sẽ hối hận.
Ai chưa thử, hãy mau nếm!
Nguồn: Việt Nam thi nhân tiền chiến, Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng, Xuân Thu tái bản, 2000

Có thể bạn quan tâm

Khám phá những mẫu PowerPoint giới thiệu bản thân ấn tượng và tinh tế nhất

Có những lưu ý nào khi chọn quà Tết cho người cao tuổi? Dưới đây là 15+ gợi ý món quà đầy ý nghĩa để bạn tham khảo.

Tuyển tập các mẫu sơ đồ PowerPoint đẹp mắt và chuyên nghiệp

Tuyển tập những mẫu PowerPoint trắc nghiệm đẹp mắt và chuyên nghiệp

Bí quyết để sống vui vẻ
