Top 10 bài văn xuất sắc phân tích tác phẩm "Tràng giang" của Huy Cận
Nội dung bài viết
1. Bài phân tích tác phẩm "Tràng giang" của Huy Cận - Số 4
Khác với dòng thơ sục sôi, nhiệt huyết của thời kỳ đổi mới sau Cách mạng tháng Tám, những vần thơ của Huy Cận trước cách mạng lại thấm đẫm nỗi buồn man mác, nỗi sầu trước cảnh ngộ xã hội. "Tràng giang" vì thế hiện lên như bức tranh cô đơn của tâm hồn nhỏ bé giữa không gian bao la rộng lớn của thiên nhiên. Bài thơ không chỉ là tiếng lòng u uất trước thiên nhiên mênh mông mà còn chứa đựng nỗi nhớ quê hương, thương xót đất nước chìm trong tang thương của thi sĩ.
Ra đời năm 1939, lần đầu được đăng trên báo "Ngày nay" và sau đó được in trong tập thơ đầu tay "Lửa thiêng", "Tràng giang" đã góp phần làm nên tên tuổi Huy Cận - một gương mặt tiêu biểu của phong trào "Thơ mới" giai đoạn đầu. Chỉ qua tựa đề, ta đã cảm nhận được chiều sâu tư tưởng và nỗi niềm tác giả gửi gắm.
Tiêu đề gợi hình ảnh con sông dài, rộng, bát ngát, nhưng ẩn sâu bên trong là những phận người trôi nổi, lạc lõng, chất chứa tâm trạng u buồn. Câu đề từ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" như khắc họa tâm trạng trĩu nặng, bối rối, chẳng biết tỏ cùng ai của nhân vật trữ tình khi đứng trước không gian vô tận.
Khổ thơ mở đầu hiện lên hình ảnh con sông ảm đạm, chứa đầy những nỗi niềm khó nói:
"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng."
Ngay từ những câu thơ đầu, cảm giác u sầu, cô đơn hiện rõ qua các từ "buồn", "sầu", "khô". Sóng gợn nhè nhẹ gợi nên những vòng sóng nhỏ lan tỏa, xô đẩy, mở rộng ra vô tận. Con thuyền trôi theo mái nước song song khiến ta cảm nhận sự đơn độc, lạc lõng giữa dòng nước mênh mông. Biện pháp đảo ngữ trong "củi một cành khô" nhấn mạnh sự cô đơn, tàn úa, trơ trọi, như chính thân phận con người trước cuộc đời chông chênh.
Khổ thơ thứ hai tiếp tục dệt nên khung cảnh vắng lặng, đìu hiu:
"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."
Tác giả tinh tế sử dụng từ láy "lơ thơ", "đìu hiu" để diễn tả sự thưa thớt, vắng vẻ, thiếu sức sống. Gió lặng lẽ thổi qua những cồn nhỏ hoang vắng, không tiếng động của làng quê hay chợ chiều, tạo nên cảm giác bơ vơ, lạc lõng. Hình ảnh "nắng xuống" và "trời lên" tạo nên sự chuyển động ngược chiều, mở rộng không gian chiều cao và chiều sâu, khiến nỗi cô đơn càng thêm bao la vô tận. "Bến cô liêu" là điểm nhấn cuối cùng, nói lên sự trống trải, lẻ loi giữa thiên nhiên rộng lớn.
Trong khổ thơ thứ ba, sự vận động của thiên nhiên phản chiếu tâm trạng nhân vật trữ tình:
"Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng."
Hình ảnh "bèo" tượng trưng cho thân phận bấp bênh, trôi nổi, nối tiếp nhau như dòng đời chập chờn. Sự vắng bóng của chuyến đò ngang, chiếc cầu thân thương gợi nên khoảng cách xa cách, cô đơn sâu sắc. Màu sắc tươi sáng của "bờ xanh" và "bãi vàng" bị phủ lên bởi sự lặng lẽ, đìu hiu, khiến cảnh vật cũng mang tâm trạng buồn tê tái.
Khổ cuối là tâm sự sâu kín của thi sĩ:
"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."
Những lớp mây chồng chất đè lên núi bạc như nỗi buồn trĩu nặng, chim nhỏ nghiêng cánh như tâm hồn chông chênh, bơ vơ giữa chiều tà. Nỗi nhớ quê hương dâng lên từng hồi khi nhìn thấy con nước trôi. Đặc biệt, dù không có bóng khói hoàng hôn, thi sĩ vẫn da diết nhớ nhà, thể hiện tâm trạng bơ vơ ngay trên mảnh đất của mình, như lời ngậm ngùi bất lực trước biến động thời cuộc.
Nghệ thuật "Tràng giang" kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, thể hiện qua việc dùng nhiều từ Hán Việt và bút pháp Đường thi, đồng thời mang nét thơ mới giàu cảm xúc, hình ảnh sinh động và thủ pháp đối, từ láy làm nổi bật sự bé nhỏ, cô đơn của con người trước vũ trụ bao la.
Qua bài thơ, Huy Cận không chỉ phác họa bức tranh thiên nhiên rộng lớn, mênh mông mà còn làm nổi bật sự cô đơn của cái tôi trước vũ trụ rộng lớn, từ đó bộc lộ nỗi niềm nhớ quê hương, tình yêu thiết tha với đất nước.

2. Bài phân tích tác phẩm "Tràng giang" của Huy Cận - Số 5
Trong phong trào Thơ Mới, ta được đắm chìm trong khu vườn thơ ngát hương sắc của những thi nhân xuất chúng. Cảm xúc bùng cháy với những câu thơ táo bạo đầy sức sống của Xuân Diệu, lắng đọng với hồn thơ trong trẻo của Thế Lữ, thổn thức với những hình ảnh kì bí của Chế Lan Viên, hay say mê với nét mộc mạc, thân thương trong thơ Nguyễn Bính.
Riêng với Huy Cận, ta cảm nhận được nỗi buồn riêng biệt, sâu lắng và da diết – một nỗi sầu mênh mang trước vũ trụ bao la, như chân trời buồn bỗng kéo dài vô tận. Bài thơ “Tràng giang” chính là biểu tượng cho phong cách đặc trưng ấy.
Tác phẩm được sáng tác năm 1940, in trong tập "Lửa thiêng", thể hiện tâm trạng cô đơn, buồn bã của con người trước cảnh vật rộng lớn bao la. Từng dòng thơ là bức tranh thiên nhiên đượm màu u hoài:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.”
Sóng nhè nhẹ gợn lăn tăn trên dòng sông sâu rộng, con thuyền nhỏ đơn độc trôi theo dòng nước mênh mông, làm nổi bật sự bé nhỏ và cô đơn giữa vũ trụ bao la. Dù cảnh vật vận động, dòng nước vẫn tĩnh lặng lạ kỳ, bao trùm một nỗi sầu sâu kín:
“Thuyền về, nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Thuyền và nước vốn gắn bó khăng khít nay như đang xa cách, phản chiếu nỗi chia ly, nỗi cô đơn của thi nhân trước thế sự đảo điên. Dòng nước trôi lặng lẽ, cành củi khô đơn độc giữa mênh mang sóng nước, tựa thân phận con người bấp bênh, trôi dạt không nơi nương tựa. Cảnh đẹp dịu dàng, yên bình mà ngập tràn nỗi buồn sâu thẳm – "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ".
Không gian thiên nhiên tiếp tục được tô điểm bởi những nét chấm phá vắng lặng, quạnh hiu:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.”
Bãi cồn nhỏ thưa thớt, gió lặng lẽ phảng phất mang theo nỗi cô đơn hoang sơ, tiếng làng chợ chiều mờ nhạt như cố níu kéo chút hơi ấm mà không thể xua tan màn buồn vắng. Thiên nhiên nơi đây dường như đồng cảm, phản chiếu tâm trạng lạnh lẽo của thi nhân giữa quê hương.
Bèo trôi dạt vô định, nối tiếp nhau như dòng đời chông chênh:
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Chuyến đò ngang không xuất hiện, chiếc cầu thân thương vắng bóng, khiến cảnh vật càng thêm đìu hiu, nỗi cô đơn dâng lên tràn ngập không gian. Màu sắc tươi sáng của "bờ xanh" và "bãi vàng" được phủ bởi sự lặng lẽ, u tịch.
Khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, đầy sức sống nhưng cũng chất chứa nỗi buồn sâu lắng được vẽ nên qua hình ảnh:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.”
Từng lớp mây chồng chất như những ngọn núi bạc hùng vĩ, cánh chim nhỏ nghiêng mình trong ánh chiều tà mang nét yếu ớt, bơ vơ. Tất cả hòa quyện thành bức tranh vừa tráng lệ vừa man mác buồn.
Cuối cùng, nỗi nhớ quê hương dâng trào mãnh liệt trong trái tim thi sĩ:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Dù không thấy bóng khói hoàng hôn, nỗi nhớ nhà vẫn dâng trào da diết, như những đợt sóng lòng bập bùng khôn nguôi, thể hiện tình cảm sâu nặng với quê hương đất nước.
Bằng việc sử dụng thành công những hình ảnh giàu sức gợi, mang đậm phong vị Đường thi cùng thủ pháp nghệ thuật tinh tế, Huy Cận đã khắc họa cái tôi độc đáo trong thơ, nuôi dưỡng tâm hồn ta với tình yêu thiên nhiên và quê hương sâu sắc.

3. Bài phân tích tác phẩm "Tràng giang" của Huy Cận - Số 6
Thời kỳ Thơ mới Việt Nam rực rỡ với những tên tuổi thi sĩ kiệt xuất: Xuân Diệu mãnh liệt khao khát tình yêu, Chế Lan Viên dằn vặt đi tìm cái tôi cá nhân, Hàn Mặc Tử hòa quyện giữa thực và mộng, và đặc biệt là Huy Cận - nhà thơ mang tâm hồn đầy ngổn ngang, chênh vênh giữa biển đời bao la.
Thơ của ông sâu sắc, giàu triết lý và suy tư thấm đẫm tâm hồn. Tác phẩm nổi bật nhất chính là "Tràng giang" – bản trường ca ngắn gọn ghi lại phút giây cảm xúc dâng trào của một chàng trai trẻ trước dòng sông Hồng mênh mang, khi Huy Cận mới đôi mươi, đạp xe ngắm cảnh chiều tà tại bến Chèm.
Ban đầu mang tên "Chiều bên sông", bài thơ sau được đổi thành "Tràng giang" với âm hưởng Hán Việt trang nghiêm, cổ kính. Âm vang của vần "ang" không chỉ khắc họa chiều rộng mênh mông của sông nước mà còn dệt nên nỗi buồn da diết, trải dài vô tận.
Lời đề từ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" như tóm trọn cảnh vật và cảm xúc, nơi thiên nhiên rộng lớn không thấy điểm cuối, còn nỗi lòng thi sĩ thì cứ dào dạt, không nguôi.
Trong "Tràng giang", bức tranh thiên nhiên và tâm trạng người thi sĩ hòa quyện rõ nét. Mở đầu bài thơ bằng bốn câu:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Từ láy “điệp điệp” tạo nên nốt trầm buồn man mác, sóng trên sông như những đợt sóng lòng lan tỏa cùng trời đất. Chiếc thuyền nhỏ thả trôi xuôi theo dòng nước, không hướng đích, gợi lên nỗi cô đơn và bơ vơ. "Thuyền về", "nước lại" tưởng chừng hòa hợp mà lại như ngăn cách, đẩy nỗi sầu lên cao, khiến cảnh vật cũng nhuốm màu chia lìa.
Hình ảnh "củi một cành khô" trôi lạc giữa dòng nước càng làm nổi bật thân phận nhỏ bé, cô đơn, không điểm tựa của thi nhân.
Khổ thơ thứ hai mở rộng nỗi buồn vào không gian:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”
Khung cảnh hiu quạnh, hoang vắng, tiếng người như khuất xa, chỉ còn nỗi cô đơn đọng lại. Từ “đâu” mang nét mơ hồ, vô định, “vãn” gợi cảm giác buông lơi, tẻ nhạt, khiến cảnh vật dường như vô vọng trả lời lòng người.
Hình ảnh “trời lên sâu chót vót” không chỉ mở rộng không gian mà còn mở ra chiều sâu nỗi buồn vô tận, khi “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Khổ thơ thứ ba là sự tuyệt vọng của thi nhân trước nỗi cô đơn đè nặng:
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Huy Cận dùng hình ảnh bèo trôi nhỏ bé, lạc lõng như tượng trưng cho kiếp người bấp bênh. Sự vắng bóng con người, sự phủ định “không đò”, “không cầu” gợi tả nỗi cô đơn vô tận, nỗi buồn đè nén mà không thể chia sẻ.
Khổ cuối đẩy nỗi cô đơn lên đỉnh điểm:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Bức tranh thủy mặc rộng lớn, tráng lệ với mây núi, chim cánh nhỏ nghiêng bóng chiều, khói hoàng hôn chầm chậm buông xuống. Cánh chim cô đơn ấy như gánh trọn nỗi lòng thi sĩ, “dợn dợn” sóng lòng nhớ nhà da diết. Câu cuối vang vọng nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ da diết không cần bất kỳ ngoại cảnh nào khơi gợi, đầy chất thi vị và trữ tình.
Như câu thơ cổ của Thôi Hiệu: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị / Yên ba giang thượng sử nhân sầu” - nơi khói sóng chiều tà, nỗi buồn lại dâng trào.
Qua “Tràng giang”, Huy Cận đã dùng bút pháp cổ điển kết hợp với nhịp điệu thơ mới, tạo nên một hình ảnh “tôi” nhỏ bé cô đơn giữa vũ trụ mênh mông, đồng thời thấm đượm nỗi nhớ quê hương, tình yêu đất nước sâu sắc của một thi sĩ đa cảm.

4. Bài phân tích tác phẩm "Tràng giang" của Huy Cận – số 7
Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc của phong trào Thơ mới, sở hữu một tâm hồn luôn chênh vênh, ảo não. Thơ ông khắc họa những cảnh thiên nhiên hoang vắng, rộng lớn, thấm đẫm nỗi buồn sâu lắng. "Tràng giang", tác phẩm tiêu biểu trong tập "Lửa thiêng", là minh chứng rõ nét cho phong cách đó.
Ngay từ nhan đề, "Tràng giang" – một từ Hán Việt mang âm hưởng cổ kính với nghĩa là dòng sông dài – đã khắc họa một không gian rộng lớn, mênh mông. Tác giả chọn dùng “tràng” thay vì “trường”, với âm vang đôi “ang” liên tiếp, tạo nên sự ngân nga, gợi tả con sông vừa rộng vừa dài trải rộng tít tắp.
Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” là tổng hòa cảnh vật và tâm trạng, bao phủ toàn bộ bài thơ bằng nỗi nhớ, niềm bâng khuâng, và một nỗi buồn lan tỏa trong từng cảnh sắc thiên nhiên.
Khổ thơ đầu mở ra không gian sông nước mênh mông, với hình ảnh sóng gợn "điệp điệp" dường như nối tiếp vô tận, nhấn mạnh sự rộng lớn bao la. Trên nền cảnh ấy, con thuyền nhỏ bé “xuôi mái nước song song” hiện lên đầy cô đơn và lẻ loi. Đặc biệt, hai câu cuối khổ thơ gợi lại nỗi sầu chia lìa sâu sắc:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Thuyền và nước vốn luôn gắn bó, nhưng giờ đây dường như chia ly, biểu tượng cho nỗi buồn vạn hướng. Hình ảnh “cành củi khô lạc mấy dòng” là biểu tượng sống động cho thân phận con người nhỏ bé, bơ vơ, lạc lõng giữa dòng đời vô định.
Khổ thơ này không chỉ vẽ nên dòng sông dài vô tận mà còn khắc họa nỗi buồn day dứt, không nguôi trong tâm hồn tác giả.
Sang khổ thơ thứ hai, không gian chuyển sang cồn nhỏ hoang vắng:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”
Nghệ thuật đảo ngữ và từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” cùng nhau dệt nên bức tranh cô đơn, lạnh lẽo, làm nổi bật nỗi buồn sâu sắc. Âm thanh tiếng chợ chiều xa xôi, yếu ớt càng làm tăng cảm giác hoang vắng và tàn úa của không gian.
Tiếp theo, hai câu thơ mở rộng không gian thêm mênh mông và cô liêu:
“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”
Chữ “sâu” thay cho “cao” không chỉ miêu tả chiều không gian mà còn gợi lên chiều sâu nỗi buồn, sự cô đơn vô tận của lòng người giữa thiên nhiên rộng lớn.
Khổ ba trở lại với khung cảnh sông nước rộng lớn nhưng thiếu vắng con người:
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang,
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Hình ảnh “bèo” tượng trưng cho kiếp người nhỏ bé, trôi nổi không định hướng. Nghệ thuật phủ định lặp lại nhấn mạnh sự cô đơn, tách biệt và thiếu vắng dấu vết con người cũng như tình người gắn kết đôi bờ.
Cuối cùng, khổ thơ kết thêm gam màu trữ tình sâu sắc với nỗi nhớ quê hương cháy bỏng:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa,
Lòng quê dờn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Bức tranh thiên nhiên chiều tà hùng vĩ hòa cùng hình ảnh cánh chim nhỏ bé và lớp mây xếp chồng, càng làm nổi bật sự cô đơn, bâng khuâng và nỗi nhớ nhà da diết trong tâm hồn thi sĩ.
Như thế, "Tràng giang" là tác phẩm kết hợp hài hòa giữa phong cách cổ điển và hiện đại, gợi lên nỗi buồn cô đơn sâu thẳm cùng tấm lòng thiết tha với quê hương đất nước. Xuân Diệu từng nhận xét: "Tràng giang là bài thơ ca đất nước, non sông", chính là bởi vậy.

5. Bài phân tích sâu sắc tác phẩm "Tràng giang" của Huy Cận - số 8
Mỗi người khi rời xa quê hương đều mang theo trong lòng hình bóng thân thương của dòng sông quê. Đặc biệt với những nhà thơ, nhà văn, dòng sông ấy không bao giờ cạn nguồn cảm hứng, luôn thôi thúc họ viết nên những vần thơ, câu văn đầy xúc cảm. Dòng sông trong thơ Tế Hanh là "nước gương trong soi tóc những hàng tre", trong tùy bút Nguyễn Tuân là con sông Đà hùng vĩ, hay sông Hương dịu dàng trong văn Hoàng Phủ... Nhưng chỉ khi đến với "Tràng giang" của Huy Cận, ta mới cảm nhận trọn vẹn vẻ đẹp tinh tế và nỗi niềm sâu sắc của tác giả dành cho dòng sông quê hương.
Huy Cận – người thơ lớn, nhà văn hóa uyên thâm – hội tụ đầy đủ tài năng, tâm hồn và tầm nhìn sâu rộng. Dù am hiểu nhiều nền văn minh, hồn thơ ông vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Nguồn thơ truyền thống đã thấm sâu vào tâm hồn ông, khiến những vần thơ trở nên mộc mạc mà tinh tế, sâu lắng mà hàm súc. Thể thơ lục bát và năm chữ của dân ca Nghệ Tĩnh dưới ngòi bút ông vừa giản dị vừa đậm đà cảm xúc, luôn ẩn chứa những suy tư sâu xa.
Hình ảnh trong thơ Huy Cận không hẳn sắc nét mà thâm trầm, khơi gợi nhiều tầng nghĩa, nhẹ nhàng len lỏi vào tâm hồn người đọc. Bức tranh thiên nhiên trong thơ ông giản lược đường nét theo phong cách cổ điển, nhấn mạnh sự gợi cảm hơn là tả thực.
Ấn tượng không gian ấy chịu ảnh hưởng phong vị Đường thi. Nhà thơ Xuân Diệu từng nhận xét: "Thơ viết về đất nước, thiên nhiên và quê hương là thế mạnh của Huy Cận. Dường như ông đã toát lên một hương sắc sâu lắng, cao đẹp nhất của tâm hồn mình" và "Tràng giang" là minh chứng rõ nét cho điều đó.
"Tràng giang" – tuyệt phẩm trong tập "Lửa thiêng" xuất bản năm 1940 – ra đời từ chiều thu năm 1939, khi Huy Cận, còn là sinh viên Đại học Canh nông, đứng trên bến Chèm ngắm sông Hồng mênh mông, dạt dào xúc cảm. Nỗi buồn man mác, bâng khuâng dâng lên trong lòng khi nhìn cảnh “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”.
Tựa đề bài thơ như cánh cửa mở ra cho người đọc khám phá nội dung, nghệ thuật tác phẩm. "Tràng giang" – hai từ Hán Việt chỉ dòng sông dài – khác với "Trường giang" thông thường, bởi không chỉ gợi sông dài mà còn chứa đựng tâm trạng sâu lắng của tác giả. Vần "ang" vang ngân như nỗi niềm chưa nguôi khi đứng trước dòng sông rộng lớn mênh mông.
Bước vào "Tràng giang", ta như lạc vào một không gian bao la, với những câu thơ mở đầu:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về, nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
“Sóng gợn” không phải sự ồn ào, mà là chuyển động nhẹ nhàng, chậm rãi, tạo nên không khí tĩnh lặng, yên bình mà sâu sắc. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh tinh tế của Huy Cận vừa gợi cảnh thiên nhiên, vừa mở ra trạng thái tâm hồn thi nhân – một nỗi buồn trầm mặc, sâu xa. "Sóng" cũng là sóng lòng, từng đợt gợn lên những nỗi niềm day dứt khôn nguôi.
Điều đặc biệt, tác giả nhấn mạnh tên bài thơ để tạo không gian rộng lớn, choáng ngợp, trong đó hình ảnh con người nhỏ bé, cô đơn hiện lên rõ nét qua "con thuyền xuôi mái nước song song" – tâm thế phó mặc, lặng lẽ trôi theo dòng đời.
Câu thơ “Thuyền về, nước lại” phá vỡ quy luật thông thường, tạo nên mâu thuẫn đầy ám ảnh, như nỗi chia lìa, cách biệt giữa người với cảnh, giữa tâm trạng và hiện thực. Nỗi sầu trăm ngả ấy được đẩy lên đỉnh điểm qua hình ảnh "củi một cành khô lạc mấy dòng" – biểu tượng cho kiếp người nhỏ bé, cô đơn, lạc lõng trôi giạt trong vô định.
Khổ thứ hai mở rộng không gian với cảnh hoang vắng, hiu quạnh:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Phép đảo ngữ và từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” tạo nên bức tranh xơ xác, tĩnh mịch. Cảnh vật như mất đi sự sống, âm thanh chợ chiều xa vắng càng làm lòng người thêm cô đơn, trống trải.
Hai câu cuối khổ thơ với đối xứng và niêm luật chặt chẽ mở rộng không gian theo chiều cao, chiều sâu, chiều dài, chiều rộng, làm nổi bật sự mênh mông, bát ngát của thiên nhiên, đồng thời khắc họa sự nhỏ bé, đơn độc của con người trước vũ trụ bao la.
Khổ ba tiếp tục nỗi buồn và sự trống vắng với hình ảnh:
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Phủ định lặp lại nhiều lần làm nổi bật sự cô liêu, biệt lập của cảnh vật. Không một cầu nối, không một chuyến đò ngang – những biểu tượng của sự kết nối con người – dường như sự sống, tình người đã biến mất, chỉ còn lại sự im lặng và vắng lặng nối dài vô tận.
Khổ thơ cuối cùng bừng lên vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên và nỗi nhớ quê nhà cháy bỏng:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Hình ảnh mây trắng lớp lớp như núi bạc rực rỡ dưới ánh chiều tà, điểm xuyết cánh chim nhỏ bé như tâm hồn đơn lẻ của nhà thơ giữa vũ trụ bao la. Nỗi nhớ quê hương thấm đượm, dâng trào ngay cả khi không có bất kỳ hiện tượng thiên nhiên hay cảnh vật nào khơi gợi, thể hiện tâm trạng hướng về tổ quốc sâu sắc, bền bỉ.
"Tràng giang" là bản hòa ca trữ tình ngợi ca thiên nhiên, đất nước và thể hiện tấm lòng thiết tha của Huy Cận với quê hương. Qua những vần thơ pha trộn sắc thái cổ điển và hiện đại, bài thơ đã làm nên một dấu ấn không thể phai mờ trong nền thơ ca Việt Nam. Xuân Diệu từng đánh giá: "Tràng giang là bài thơ ca hát non sông đất nước, dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc" – một lời nhận định xứng đáng với giá trị bền vững của tác phẩm.

6. Phân tích bài thơ "Tràng giang" của Huy Cận số 9
Trước Cách mạng tháng Tám, hình ảnh thiên nhiên trong thơ Huy Cận luôn thấm đượm một nỗi buồn sâu lắng – biểu tượng của cả một thế hệ Thơ mới. "Tràng giang" (1939 – trích tập Lửa thiêng) là tiếng lòng buồn miên man của thi sĩ trước không gian trời rộng, sông dài; sự cô đơn và lạc lõng của con người ngay giữa quê hương mình. Bài thơ còn gửi gắm tình yêu đất nước một cách thầm kín, sâu sắc.
"Tràng giang" nghĩa là con sông dài; từ "tràng" còn đọc là "trường" nhưng với âm vang mênh mang hơn, tạo nên vẻ cổ kính, bất tận cho dòng sông. Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên rộng lớn:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Câu thơ đầu hiện lên dòng sông rộng lớn, sóng gợn nhẹ nhàng nối tiếp nhau, tạo nên không gian tĩnh lặng nhưng ngập tràn nỗi buồn sâu sắc: "buồn điệp điệp" – nỗi buồn tầng tầng lớp lớp, nối dài theo dòng nước trôi về muôn ngả. Cảnh tràng giang mang nét cổ kính thấm đẫm:
Xanh om cổ thụ tròn xoe tán.
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng lờ.
Hình ảnh cành củi khô trôi giữa dòng sông bao la như ẩn dụ cho thân phận con người nhỏ bé, lạc lõng, bị dòng đời cuốn trôi không điểm dừng. Khổ thơ xây dựng trên sự tương phản giữa sự mênh mông của dòng sông và sự nhỏ bé, cô đơn của con thuyền, cành củi, làm nổi bật thân phận lẻ loi giữa không gian bao la.
Âm điệu bài thơ chủ yếu là buồn – nỗi buồn của một con người cô đơn, lạc lõng trong đời. Khổ hai tiếp tục mở rộng không gian, đẩy cảm xúc lên cao hơn:
Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều,
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Cồn nhỏ đơn độc giữa dòng nước, gió đìu hiu làm tăng thêm sự hoang vắng, buồn tê tái. Âm thanh chợ chiều vang lên rồi tắt dần, khiến không gian càng thêm vắng lặng, cô đơn. Bầu trời sâu thẳm như mở rộng vô tận, đẩy nỗi cô đơn của thi sĩ lên đỉnh điểm:
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Không gian và cảnh vật dần tách rời, phủ lên tâm trạng nhà thơ một màn sầu muôn thuở. Khổ ba lại thể hiện sự chia lìa, ngăn cách:
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu một chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Tất cả sự vật tuy kề nhau nhưng lại thiếu sự gắn kết, tạo nên một thế giới xa lạ, cô độc. Nhà thơ như khao khát dấu hiệu của cuộc sống, tình người nhưng tất cả chỉ là khoảng không mênh mông, vắng lặng. Khổ thơ kết thúc bằng hình ảnh sóng nước rộng lớn, không một chiếc cầu hay chuyến đò nào nối đôi bờ, biểu tượng cho sự chia lìa, cô đơn tột cùng.
Ở ngã ba dòng nước, tiếng gà lạ vang lên giữa hoàng hôn buồn tẻ, nhà thơ đứng giữa quê hương mà lòng vẫn bơ vơ, thèm khát một sự gắn bó, một điểm tựa của cuộc sống:
Thuyền không giao nối đây qua đó
Vạn thuở chờ mong một cánh buồm.
Khép lại bài thơ là cảnh chiều tà hùng vĩ, đầy thi vị:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ; bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Hình ảnh mây trắng như núi bạc rực rỡ trong ánh chiều, cùng cánh chim nhỏ bé nghiêng cánh tạo nên một bức tranh thiên nhiên vừa hùng vĩ vừa mông lung. Không gian như mang cả nỗi buồn da diết của nhà thơ – một nỗi nhớ quê sâu sắc dù không có một dấu hiệu hiện hữu nào của khói hoàng hôn. Tình quê lan tỏa trong từng con sóng, hòa quyện trong tâm hồn thi sĩ.
Tổng kết lại, "Tràng giang" của Huy Cận là khúc ca ngợi cảnh vật thiên nhiên gắn liền với thân phận con người, vừa biểu hiện nỗi buồn của một thời đại, vừa thể hiện tình yêu sâu sắc với quê hương, đất nước. Bài thơ hòa quyện vẻ đẹp cổ điển trong hình ảnh và giọng điệu với nét đặc sắc hiện đại trong cảm xúc và cách xây dựng không gian.

7. Bài phân tích sâu sắc tác phẩm "Tràng giang" của Huy Cận – Số 10
Lời đề từ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" như khắc sâu cảm xúc chủ đạo của Huy Cận trong bài thơ "Tràng giang", một tác phẩm đậm đà linh hồn và thời gian hơn nửa thế kỷ qua. "Tràng giang" - tuyệt tác được in trong tập "Lửa thiêng" năm 1940 - mang trong mình nỗi buồn da diết của thiên nhiên và con người.
Vào một buổi chiều thu năm 1939, khi còn là sinh viên trường Đại học Canh nông, Huy Cận đứng bên bờ Nam bến Chèm, ngắm nhìn dòng sông Hồng mênh mông, lòng tràn đầy xúc cảm để rồi sáng tác nên bài thơ này. Từng câu chữ vang vọng nỗi buồn man mác giữa không gian hoàng hôn rộng lớn: "Sông dài, trời rộng, bến cô liêu".
Khổ thơ mở đầu miêu tả những làn sóng nhẹ nhàng, con thuyền trôi và cành củi khô trôi dạt giữa dòng nước:
"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song".
Tràng giang, nghĩa là sông dài rộng như Hoàng Hà, Trường Giang, chính là sông Hồng thân thương, dòng sông đỏ phù sa. Sóng gợn từng lớp, buồn theo từng lớp sóng, len lỏi vào tận đáy lòng người. Chiếc thuyền nhỏ thả mái chèo trôi lững lờ, hòa mình vào làn nước lặng sóng song song.
Những từ láy "điệp điệp" và "song song" không chỉ gợi hình mà còn dệt nên nỗi buồn sâu lắng, mơ hồ và xa vắng. Hình ảnh cành củi khô vừa hiện thực vừa ẩn dụ cho cuộc đời phù du, bé nhỏ giữa dòng đời bấp bênh.
"Thuyền về nước lại sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng".
Phép đối ý và đối hình tinh tế tạo nên sự cân bằng hài hòa trong vần điệu. Con thuyền và cành củi khô cùng trôi dạt trên dòng tràng giang, như tượng trưng cho kiếp người nhỏ bé, mang trong mình nỗi sầu muôn thuở, lan tỏa khắp không gian bao la.
Nỗi buồn vô hạn ấy được mở rộng trong một không gian rộng lớn, với hình ảnh cồn nhỏ trơ trọi và ngọn gió đìu hiu: "Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu". Tiếng láy và vần điệu tạo nên âm vang buồn man mác, như một khúc trầm của thiên nhiên.
Cảnh chợ chiều xa vắng, tiếng làng dần tắt khiến nỗi cô đơn trong lòng thi nhân càng dâng cao: "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều".
Bầu trời cao rộng và dòng sông dài như hòa làm một, tạo nên không gian hai chiều sâu thẳm: "Nắng xuống trời lên sâu chót vót; Sông dài, trời rộng, bến cô liêu". Cách dùng từ độc đáo khiến hình ảnh vừa vời vợi vừa rợn ngợp, góp phần làm nổi bật sự bao la của vũ trụ cùng nỗi buồn vĩnh hằng của thi nhân.
"Tràng giang" là viên ngọc sáng trong tập "Lửa thiêng" – nơi chứa đựng nỗi buồn mênh mông, sâu lắng vượt qua thời gian, như Xuân Diệu từng nhận định là "cái lớp sầu dưới đáy hồn nhân thế".
Hình ảnh cánh bèo trôi, biểu tượng cho sự chia lìa và lưu lạc, được diễn tả qua khổ thơ:
"Bèo dạt về đâu hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng".
Phủ định liên tiếp bằng từ "không" gợi lên sự vắng lặng, cô đơn của không gian mênh mông, không có bóng dáng con người, tình cảm hay sự giao hòa thân mật. Màu xanh của bờ và vàng của bãi nối tiếp nhau nhưng chỉ tạo nên sự lặng lẽ, xa cách.
Khổ thơ cuối là khoảnh khắc hoàng hôn thiêng liêng, gợi nhớ về quê hương qua những hình ảnh nên thơ:
"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà".
Huy Cận khéo léo sử dụng thi liệu đậm chất cổ điển hòa quyện cùng cảm xúc hiện đại, thể hiện tình quê sâu sắc và da diết, dù không cần đến khói sóng cũng đủ khiến lòng người vương vấn nhớ thương quê hương.
"Tràng giang" không chỉ là bài thơ xuất sắc trong "Lửa thiêng", mà còn là bản hòa ca yêu nước, dọn đường cho những thi phẩm sau này tràn đầy tình yêu đất nước và con người. Qua từng câu thơ, ta thấy tình yêu ấy được thắp sáng, khiến lòng ta thêm tha thiết với non sông, sông núi, và quê hương Việt Nam.

8. Bài văn phân tích tác phẩm "Tràng giang" của Huy Cận số 1
Nhà thơ Huy Cận, tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ riêng biệt, đã để lại dấu ấn sâu đậm trong phong trào thơ mới (1930-1945). Quê hương ông ở Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và qua đời năm 2005. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ của ông mang nỗi buồn sầu về kiếp người, cùng những ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, với các tác phẩm tiêu biểu như: "Lửa thiêng", "Vũ trụ ca", "Kinh cầu tự". Sau Cách mạng tháng Tám, tâm hồn thơ của ông đã thay đổi, trở nên lạc quan hơn, thấm đẫm niềm tin vào cuộc sống và sự nghiệp xây dựng đất nước của nhân dân lao động qua các tác phẩm như: "Trời mỗi ngày lại sáng", "Đất nở hoa", "Bài thơ cuộc đời"...
Bài thơ "Tràng giang" là một tác phẩm nổi bật, tiêu biểu cho phong cách thơ của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Được sáng tác trong bối cảnh nhà thơ đứng bờ Nam bến Chèm bên dòng sông Hồng, nơi có cảnh sóng nước mênh mông, bài thơ bộc lộ nỗi buồn man mác về kiếp người nhỏ bé, nổi trôi vô định giữa thiên nhiên bao la. Được trích trong tập thơ "Lửa thiêng", bài thơ này đã thể hiện một vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại, dễ dàng chạm đến trái tim người đọc.
Đoạn thơ mở đầu, "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài", đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên rộng lớn, mang vẻ đẹp cổ điển pha lẫn hiện đại. Từ "Tràng giang" là sự sáng tạo độc đáo của Huy Cận, với âm điệu "ang" khiến con sông không chỉ dài mà còn rộng lớn vô cùng. "Tràng giang" mang hơi thở của Đường thi, nhưng cũng là một khái niệm mới mẻ, mở rộng không gian tâm hồn của nhà thơ.
Tác phẩm này mang đậm dấu ấn cổ điển trong việc thể hiện thiên nhiên như một không gian vô tận, nhưng đồng thời lại thể hiện nỗi buồn sâu sắc của con người. Dòng sông không chỉ là một dòng nước mênh mông mà còn là sự chia ly, buồn bã của kiếp người nhỏ bé, cô đơn. "Củi một cành khô lạc mấy dòng" là hình ảnh đặc trưng của sự lạc lõng, vô định của kiếp sống con người. Trong không gian bao la ấy, con người chỉ là những phận đời trôi nổi, vĩnh viễn lạc lối giữa dòng đời vô tận.
Bài thơ sử dụng những hình ảnh và từ ngữ hết sức tinh tế, từ "sóng gợn tràng giang" cho đến "cồn nhỏ gió đìu hiu" để làm nổi bật sự trống vắng, buồn tẻ của không gian. Từ láy "lơ thơ" và "đìu hiu" tạo nên một không gian lạnh lẽo, tiêu điều, nơi không có sự sống, không có âm thanh. Trong không gian ấy, nỗi nhớ nhà, nỗi khao khát về quê hương trở nên mạnh mẽ và da diết.
Bài thơ không chỉ là sự phản ánh vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là sự khắc họa những nỗi buồn vĩnh cửu của con người, qua những hình ảnh vừa cổ điển vừa hiện đại, như "lớp lớp mây cao đùn núi bạc" hay "chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa". Tất cả những hình ảnh ấy đều mang đậm dấu ấn của một thời đại, một tâm hồn yêu nước sâu sắc, với nỗi niềm nhớ nhà mãnh liệt. Bài thơ sẽ còn mãi là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ Huy Cận, với sự hòa quyện giữa vẻ đẹp cổ điển và hiện đại, cùng tình yêu quê hương cháy bỏng.

9. Bài văn phân tích tác phẩm "Tràng giang" của Huy Cận – Số 2
Huy Cận – nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới (1930-1945), đã khéo léo kết hợp hài hòa giữa cái cũ và cái mới trong từng vần thơ. Sự nghiệp sáng tác của ông đánh dấu hai giai đoạn rõ nét: trước và sau Cách mạng tháng Tám.
Trước cách mạng, thơ ông tràn ngập nỗi u buồn, sầu thảm trước cảnh đời; sau cách mạng, tinh thần thơ trở nên tươi sáng, tràn đầy hy vọng đổi mới. "Tràng giang" – tác phẩm sáng tác trước cách mạng – là tiếng lòng nặng trĩu, khắc họa thân phận con người nhỏ bé, trôi nổi bấp bênh giữa dòng đời vô định, để lại dư âm buồn sâu sắc cho người đọc.
Tựa đề "Tràng giang" gợi hình ảnh dòng sông dài rộng mênh mông, khiến ta liên tưởng đến những thi phẩm Đường thi cổ điển. Nhưng đồng thời, hình ảnh ấy cũng là biểu tượng cho tâm trạng bơ vơ, cô đơn của những thân phận lặng lẽ, nổi trôi trên dòng sông cuộc đời rộng lớn và bất định.
Lời đề từ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" như khắc họa sâu sắc nỗi niềm cô đơn, bơ vơ, đứng giữa không gian bao la trời đất mà không biết trút bầu tâm sự cùng ai. Toàn bài thơ toát lên vẻ đẹp dung hòa giữa cổ điển và hiện đại – nét đặc sắc trong phong cách Huy Cận. Khổ thơ mở đầu khắc họa rõ nét hình ảnh con sông chất chứa nỗi buồn âm thầm, sâu thẳm:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Những từ ngữ u sầu như “buồn”, “xuôi mái”, “sầu trăm ngả”, “lạc mấy dòng” kết hợp với điệp ngữ “điệp điệp”, “song song” đã khắc họa một không gian đượm buồn vô tận. Khổ thơ đầu thể hiện sự giao hòa giữa phong cách cổ điển và dấu ấn hiện đại.
Hình ảnh con thuyền xuôi mái trôi theo dòng nước vô tận, đặc biệt là “cành củi khô” đơn độc trôi giữa mênh mông, tạo nên nét chấm phá đầy ám ảnh. Dòng sông dài rộng như chứa đựng nỗi buồn sâu lắng, trầm mặc khiến lòng người rưng rưng.
Thuyền và nước vốn không thể tách rời, nhưng “thuyền về nước lại sầu trăm ngả” gợi sự chia lìa đau đớn, nỗi xót xa thấm thía trong tâm hồn.
Nỗi buồn ấy dâng trào cùng sóng nước dập dềnh, nổi bật nhất là câu thơ cuối với hình ảnh “củi” tượng trưng cho sự bé nhỏ, yếu ớt, đơn côi, lạc lõng – biểu tượng cho thân phận nhà thơ và thế hệ ông trong xã hội đầy biến động.
Khổ thơ thứ hai như nhân lên nỗi cô đơn trống trải:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu
Hai câu đầu gợi lên bức tranh làng quê buồn bã, hoang vắng, không một tiếng động. Hình ảnh “cồn nhỏ”, “gió đìu hiu” như phủ lên cảnh vật một màn sương lạnh lẽo, thấm đẫm nỗi cô đơn mặc định.
Câu hỏi tu từ “đâu” vang lên như lời thở than đầy tiếc nuối, hụt hẫng, thể hiện sự trống trải không bờ bến.
Hai câu cuối dùng hình ảnh “trời sâu” thay cho “trời cao” tạo nên nét độc đáo, tài tình của Huy Cận khi mở rộng không gian và chiều sâu cảm xúc. Từ “cô liêu” khắc họa trọn vẹn nỗi buồn sâu thẳm của tâm hồn lạc lõng giữa vũ trụ mênh mông.
Khổ ba cho thấy nỗ lực tìm kiếm hơi ấm giữa thiên nhiên lạnh lẽo, nhưng sự im lặng của vạn vật khiến sự cô đơn càng thêm dày đặc:
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thương nhớ
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Sự vận động của thiên nhiên qua từ “dạt” không mang lại niềm an ủi, bởi bèo trôi vô định, không bến bờ, không chốn nương thân. Sự vắng lặng tuyệt đối với “không một chuyến đò ngang” hay “không cầu” như bóp nghẹt mọi hy vọng giao hòa.
Khổ cuối chấm phá bằng bức tranh thiên nhiên hoàng hôn đầy chất thơ:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Hình ảnh “mây cao”, “núi bạc” gợi nét trữ tình cổ điển, hòa quyện cùng cảm xúc hiện đại qua hình tượng “chim nghiêng cánh”, “bóng chiều” – biểu tượng của sự chuyển giao và chia ly.
Nỗi nhớ nhà, nhớ quê sâu nặng như lan tỏa trong từng nhịp thơ, hiện lên một cách tinh tế mà xúc động. Câu thơ gợi nhớ tứ thơ của Thôi Hiệu, vang vọng tình quê thiết tha.
"Tràng giang" không chỉ là bức tranh thiên nhiên u buồn mà còn là tiếng lòng thổn thức của con người trước cảnh đời bấp bênh, thể hiện tài năng kết hợp bút pháp hiện thực và cổ điển đặc sắc của Huy Cận, đồng thời phản chiếu nỗi nhớ quê hương tha thiết, sâu sắc.

10. Bài văn phân tích tác phẩm "Tràng giang" của Huy Cận số 3
"Tràng Giang" là một kiệt tác của Huy Cận, đồng thời là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới. Bài thơ phản ánh sâu sắc nỗi cô đơn, lạc lõng của con người giữa chính mảnh đất quê hương mình. Được in trong tập "Lửa thiêng" xuất bản năm 1940, bài thơ khắc họa nỗi buồn của một thế hệ, một nỗi buồn dai dẳng, bế tắc không tìm thấy lối thoát.
Ngay từ những câu thơ đầu, một bức tranh sông nước vắng lặng hiện lên sống động:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả,
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Câu thơ mở đầu tạo nên không gian thiên nhiên rộng lớn với những “gợn” sóng nhẹ nhàng, gợi nên bầu không khí tĩnh mịch, bao phủ mọi vật. “Tràng giang” không chỉ nói về độ dài mà còn mở rộng đến sự bao la vô tận. Từ điệp "điệp điệp" lặp lại gợi nỗi buồn âm thầm, dai dẳng trong lòng con người, hòa quyện với cảnh vật. Hình ảnh con thuyền nhỏ bé, đơn độc trôi theo dòng nước càng làm nổi bật sự bấp bênh, yếu ớt của thân phận con người trước thiên nhiên mênh mông.
Câu cuối khổ một, “cành củi khô” giản dị mà đầy sức ám ảnh, biểu tượng cho sự nhỏ bé, cô đơn, tàn lụi và trôi dạt không định hướng, như thân phận những người trẻ tuổi lạc lõng, bơ vơ trong thời đại nhiều biến động.
Khổ thơ thứ hai mở rộng cảnh vật nhưng vẫn bao phủ bởi nỗi cô quạnh:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Huy Cận dùng hình ảnh “cồn nhỏ”, “gió đìu hiu” để tạo nên không gian nhỏ bé, tĩnh mịch và vắng vẻ. Câu hỏi tu từ “đâu tiếng làng” như vọng lên một nỗi niềm khao khát có tiếng nói cuộc sống nhưng lại chỉ nhận về sự im lặng tuyệt đối. Sự đối lập trong cặp câu “nắng xuống” – “trời lên”, “sông dài” – “trời rộng” mở rộng chiều không gian sâu thẳm, thấm đượm nỗi buồn và sự cô đơn đến tận cùng.
Khổ thơ tiếp theo miêu tả sự vô định, bấp bênh:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Cánh bèo trôi dạt không mục đích, tượng trưng cho thế hệ thanh niên lạc lõng chưa tìm được phương hướng trong cuộc đời. Sự vắng bóng của con người thể hiện qua câu phủ định về chuyến đò và cây cầu, chỉ còn lại thiên nhiên bao la, trơ trọi, lặng lẽ tiếp nối nhau trong tĩnh lặng.
Khổ thơ cuối mở ra không gian mênh mông, hùng vĩ với:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc…
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Nét chấm phá tinh tế trong hình ảnh “mây cao đùn núi bạc” tạo nên vẻ tráng lệ, uy nghiêm của thiên nhiên, tương phản với sự nhỏ bé, mỏng manh của cánh chim trong chiều tà. Cánh chim mang nặng tâm trạng u buồn, biểu tượng cho cái tôi thơ mới luôn trăn trở và đau đáu. Nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương dâng trào, mãnh liệt đến nỗi không cần đến cảnh vật bên ngoài cũng thấy rõ trong lòng tác giả, như những đợt sóng dồn dập “dợn dợn” lan tỏa.
Toàn bộ bài thơ là bức tranh cảm xúc sâu sắc, thể hiện tâm trạng của thế hệ thơ mới đang đối mặt với sự bế tắc, chưa tìm được lối thoát cách mạng. "Tràng Giang" không chỉ là tác phẩm tiêu biểu của Huy Cận mà còn là dấu ấn mở đầu cho dòng thơ hướng về quê hương, đất nước, đầy tâm huyết và đậm chất nghệ thuật.

Có thể bạn quan tâm

Top 9 cửa hàng ghế massage uy tín và chất lượng hàng đầu tại Tp Bắc Giang

Khám phá 9 cửa hàng quần áo nữ xinh xắn và chất lượng hàng đầu tại quận Bình Thạnh, TP.HCM

Top 10 cửa hàng bán phấn nước chất lượng hàng đầu trên Shopee

Khám phá công thức nấu cháo lươn với nghệ chuẩn vị Nghệ An, món ăn đậm đà hương sắc và cực kỳ bổ dưỡng.

Giá heo hơi hôm nay 12/6: Ổn định vững chắc trên cả ba miền
