Top 7 bài văn cảm nhận sâu sắc về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu (Ngữ văn 11) xuất sắc nhất
Nội dung bài viết
1. Bài văn cảm nhận sâu sắc về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu – Mẫu số 4
Trên cương vị nhà thơ, sự sâu sắc và thâm thúy trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu thể hiện rõ qua những lời khen chê minh bạch, sự biểu dương và phê phán công bằng, giữa thiện và ác, đúng và sai được phân minh theo chuẩn mực văn hóa Việt Nam.
Ông là biểu tượng của nhân cách Việt Nam trong thời kỳ đất nước trải qua nhiều biến cố đau thương nhưng đồng thời cũng vô cùng vĩ đại. Dù mù lòa, chịu nhiều mất mát, sự nghiệp dang dở, Nguyễn Đình Chiểu vẫn kiên định lựa chọn con đường sống và chiến đấu bằng ngòi bút đầy công tâm, đứng về phía chính nghĩa trong bối cảnh "quốc gia lâm nguy, thất phu hữu trách".
Từ góc nhìn văn hóa, ông là con người trọng đạo lý, yêu thương, ghét bỏ rõ ràng, dám hy sinh vì người vì đời, không khuất phục trước quyền lực, và hoàn thành trọn vẹn thiên chức nhà thơ, nhà giáo, thầy thuốc, người công dân yêu nước. Câu thơ nổi tiếng của ông đã trở thành tấm gương sáng cho thế hệ sau:
“Sự đời thà khuất đôi tròng thịt
Lòng đạo xin tròn một tấm gương”
Nhân cách kiên cường ấy là minh chứng sống động về ý chí vững vàng trước nghịch cảnh, thể hiện thái độ sống có văn hóa và khí phách anh hùng đặc sắc của người Việt. Ông không ngần ngại lên án bọn thực dân xâm lược và cả những kẻ phản bội đất nước qua những vần thơ đanh thép và sâu sắc:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim nháo nhác bay”.
Ông cũng tố cáo tội ác của kẻ xâm lược trong việc phá hủy di sản văn hóa dân tộc:
“Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”.
Với lòng căm ghét kẻ phản bội, ông từng viết:
“Dù đui mà giữ đạo nhà
Còn hơn có mắt ông cha không thờ.
Dù đui mà khỏi danh nhơ
Còn hơn có mắt ăn dơ tanh rình”.
Ông xem ngòi bút là vũ khí chiến đấu, trực tiếp phê phán những kẻ mượn danh văn chương để đảo lộn chính nghĩa:
“Thây nay cũng nhóm văn chương
Vóc dê da cọp khôn lường thực hư”.
Tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu luôn giữ được sức sống lâu bền trong lòng nhân dân, phản ánh lý tưởng anh hùng, tôn trọng đạo lý và công bằng xã hội, khắc họa khí phách đặc trưng của con người Nam Bộ qua những nhân vật trong "Lục Vân Tiên" và các nghĩa sĩ kháng Pháp.
Truyện thơ "Lục Vân Tiên" còn được phổ biến rộng rãi qua các hình thức dân gian và nghệ thuật biểu diễn truyền thống như nói thơ, hò, ca ra bộ và cải lương, đồng thời được chuyển thể thành các loại hình nghệ thuật hiện đại như nhạc kịch và phim truyện.
Trên lĩnh vực giáo dục, ông là người thầy tận tâm, truyền dạy đạo lý truyền thống và nhân cách người quân tử cho thế hệ tương lai. Hào khí Đồng Nai được giữ gìn và phát huy một phần nhờ công lao của ông và các thế hệ thầy trò kế tiếp.
Là một thầy thuốc, ông còn nổi tiếng với tác phẩm "Ngư Tiều y thuật vấn đáp", nơi thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc và tinh thần cứu người không vụ lợi. Ông quan niệm y đức chính là đạo cứu người, yêu nước và yêu thương nhân dân, góp phần bảo vệ và truyền lại giá trị văn hóa truyền thống cho các thế hệ sau.
Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu là minh chứng sống cho tinh thần kiên cường, lòng yêu nước, và sự trân trọng giá trị văn hóa dân tộc, để lại dấu ấn sâu sắc trong đời sống văn hóa và lịch sử Việt Nam.

2. Bài văn cảm nhận sâu sắc về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu - mẫu số 5
Nguyễn Đình Chiểu được nguyên Thủ tướng Phạm Văn Đồng ví như "vì sao tỏa sáng trên bầu trời", tượng trưng cho nghị lực và phẩm hạnh kiên cường. Ông là hình mẫu của người chiến sĩ văn chương, sống thẳng thắn, chính trực và luôn kiên định với lý tưởng, đấu tranh không ngừng cho lẽ phải và quyền lợi nhân dân.
Sinh năm 1822 và mất năm 1888, Đồ Chiểu từng đỗ tú tài và học tập tại Huế, nhưng cuộc đời ông gập ghềnh khi mẹ mất và ông mù lòa vì khóc thương. Trước cảnh nước nhà bị xâm lược, ông trở về Ba Tri, Bến Tre, tiếp tục dạy học, chữa bệnh và gắn bó sâu sắc với phong trào nghĩa binh. Dù mù cả hai mắt, ông vẫn dùng ngòi bút làm vũ khí sắc bén để kêu gọi lòng yêu nước và tinh thần quật khởi của sĩ phu và dân chúng.
Nguyễn Đình Chiểu là người trọng đạo lý, nặng tình thương, luôn giữ gìn bản sắc dân tộc với sự rõ ràng trong yêu ghét, khen chê. Ông sẵn sàng hy sinh vì người khác, không màng danh lợi, kiên cường không chịu khuất phục trước cường quyền. Văn chương của ông vừa là vũ khí chiến đấu vừa là tiếng nói sâu sắc phản ánh khí tiết và tâm hồn một người chí sĩ yêu nước.
Cái tên Cụ Đồ Chiểu còn gắn liền với sự nghiệp giáo dục và y học. Ông không chỉ là người thầy tận tâm truyền dạy đạo lý và nhân cách cho thế hệ sau mà còn là thầy thuốc am hiểu y học Đông phương, coi trọng y đức và đạo làm người. Tác phẩm "Ngư Tiều y thuật vấn đáp" của ông là minh chứng cho triết lý sống, cứu người và lòng nhân đạo sâu sắc.
Dù cuộc đời trải qua nhiều thử thách nghiệt ngã: nước mất nhà tan, mù lòa, đau thương cá nhân, Nguyễn Đình Chiểu vẫn không ngừng nỗ lực, đứng vững trước thử thách với thái độ sống có văn hóa, một nhân cách cao đẹp của người Việt. Văn thơ ông chứa đựng sự minh bạch trong chánh tà, rõ ràng trong yêu ghét, hài hòa với đạo lý và chuẩn mực văn hóa dân tộc.
Thơ văn yêu nước của ông là tiếng lòng của nhân dân Nam Bộ trong phong trào kháng Pháp, ca ngợi sự hy sinh và lòng trung nghĩa của những anh hùng. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được xem như khúc ca bi tráng, không thua kém Đại Cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi, thể hiện khí phách hiên ngang của người dân trước giặc thù.
Truyện thơ Lục Vân Tiên, một bản trường ca ca ngợi chính nghĩa và đức hạnh, đã trở thành phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa dân gian qua nhiều thế hệ, được truyền tụng bằng nhiều hình thức nghệ thuật từ dân gian đến hiện đại.
Quan điểm văn chương của Nguyễn Đình Chiểu tập trung vào "văn dĩ tải đạo" - văn học mang sứ mệnh nhân văn và chiến đấu. Thơ văn ông thấm đẫm tình người, lẽ phải, là sự hòa quyện của tinh thần tiến công và lòng nhân ái, thể hiện qua cái nhìn rõ ràng về chính tà và chuẩn mực văn hóa Việt Nam.
Tác phẩm của ông không chỉ có sức sống lâu bền mà còn có ảnh hưởng sâu rộng đến tư tưởng và đời sống văn hóa của nhân dân, thể hiện khí phách anh hùng và lối sống đậm chất văn hóa, trọng đạo lý, căm ghét bất công và áp bức.
Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu là tấm gương sáng cho tinh thần yêu nước, trách nhiệm xã hội và sức mạnh của văn chương nghệ thuật trong cuộc đấu tranh vì tự do, công lý, không chỉ cho hôm nay mà còn cho mai sau.

3. Bài văn cảm nhận sâu sắc về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu - mẫu 6
Nền văn học trung đại tựa như một dãy núi hùng vĩ, nơi ba đỉnh núi sáng chói là Nguyễn Trãi của thế kỉ XV, Nguyễn Du của thế kỉ XVIII và Nguyễn Đình Chiểu của thế kỉ XIX. Nhà thơ Đồ Chiểu, người được gọi là “Thư sinh đánh giặc bằng ngòi bút”, đã cống hiến cả cuộc đời mình cho quê hương qua những tác phẩm yêu nước sâu sắc, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc.
Nguyễn Đình Chiểu sinh năm 1822, mất năm 1888, còn gọi là Đồ Chiểu khi dạy học, tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ và Hối Trai sau khi mù. Quê mẹ ông ở làng Tân Thới, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (nay thuộc phường Cầu Kho, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh). Năm 1843, ông đỗ Tú tài tại Gia Định. Năm 1847, ông ra Huế chuẩn bị thi khoa Kỷ Dậu 1849 nhưng mẹ ông qua đời. Vì đau thương quá mức, ông đã khóc đến mù đôi mắt. Trở về quê chịu tang, ông lại bị gia đình giàu có bội ước, từ đó ông vừa dạy học, vừa sáng tác thơ ca. Khi Pháp xâm chiếm Gia Định, ông chuyển về Ba Tri, Bến Tre tiếp tục dạy học và làm thuốc, đồng thời gắn bó với các nghĩa binh như Đốc binh Nguyễn Văn Là và lãnh binh Trương Định, dùng văn chương làm ngọn cờ kêu gọi lòng yêu nước của sĩ phu và dân chúng.
Tiểu sử ấy khiến tôi xúc động và ngưỡng mộ sâu sắc nhân cách lớn lao của ông – minh chứng sống cho nghị lực phi thường của con người. Dù cuộc đời nghiệt ngã với cảnh nước mất nhà tan, đôi mắt mù lòa, bị từ hôn, ông không bao giờ buông xuôi. Vượt lên số phận để đứng vững giữa bão táp cuộc đời chính là tinh thần văn hóa và phẩm giá cao đẹp của Nguyễn Đình Chiểu. Từ góc độ văn hóa, ông là người Việt Nam trọng đạo lý, giàu lòng nhân ái, kiên định giữ gìn bản sắc dân tộc, yêu ghét phân minh. Vì người, ông sẵn sàng hy sinh, không màng danh lợi; vì đời, ông đương đầu mọi gian khó, không sợ quyền uy, không khuất phục cường quyền. Dù mù lòa, ông không cầm được vũ khí, nhưng dùng ngòi bút làm vũ khí sắc bén chống giặc, ca ngợi những tấm gương hy sinh vì nghĩa lớn, luôn giữ trọn khí tiết của kẻ sĩ yêu nước.
Điều làm tôi trân trọng hơn cả là sự nghiệp giáo dục của ông – một người thầy tận tâm truyền dạy môn sinh những giá trị cốt lõi của văn hóa Việt về đạo lý truyền thống và nhân cách người trí thức. Hào khí Đồng Nai, biểu tượng văn hóa Nam Bộ, được nuôi dưỡng và phát huy nhờ sự nghiệp giáo dục của nhiều thế hệ thầy cô, trong đó có Nguyễn Đình Chiểu, học trò đời thứ hai của nhà giáo Võ Trường Toản – bậc thầy về tri ngôn, dưỡng khí và tập nghĩa, người tận tụy đào tạo những thế hệ học trò tài đức vẹn toàn.
Không những thế, Nguyễn Đình Chiểu còn là thầy thuốc uyên thâm, thông hiểu y học phương Đông và y học Việt Nam cả về kỹ thuật lẫn y đức – đạo cứu người hòa quyện với trách nhiệm cứu dân. Tác phẩm cuối đời của ông, "Ngư Tiều y thuật vấn đáp", không chỉ dạy nghề thuốc mà còn dạy đạo làm người, với tư tưởng yêu nước và thương dân xuyên suốt:
“Xưa rằng quốc thử lời khen phải
Giúp sống dân ta trọn lẽ trời”.
Giáo sư Lê Trí Viễn nhận định: “Y thuật ấy là kết tinh của hàng trăm bộ sách qua nhiều thế kỷ. Tình yêu nước của cụ vừa sâu sắc trong cuộc đời cá nhân, vừa mang chiều dài lịch sử dân tộc ngàn năm, tạo thành thang thuốc hồi sinh và con đường sống phù hợp với những người yêu nước trong thời kỳ đất nước rơi vào tay giặc: giữ khí tiết không phục vụ quân thù, làm công việc vừa có ý nghĩa, vừa giúp dân, giúp nước.”
“Thấy người đau giống mình đau
Phương nào cứu đặng, mau mau trị lành.
Đứa ăn mày cũng trời sanh
Bịnh còn cứu đặng thuốc dành cho không”.
Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu thật đẹp đẽ và vĩ đại. Khi đọc thơ văn của ông, ta cảm nhận được lòng yêu nước mãnh liệt và tấm lòng thương dân bao la, đồng thời thấy đó là vũ khí kiên cường chống lại giặc ngoại xâm. Thơ ca yêu nước của ông thổi bùng phong trào kháng chiến kiên cường của nhân dân Nam Bộ. Qua các bài văn tế ca ngợi sĩ phu và nông dân Lục tỉnh, ta hiểu sâu sắc tấm lòng trung nghĩa của ông. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nhận xét về "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc": “Bài văn của Nguyễn Đình Chiểu khiến ta nhớ đến "Đại cáo bình Ngô" của Nguyễn Trãi. Hai bài văn, hai thời đại, nhưng cùng chung một dân tộc. Cáo của Nguyễn Trãi là khúc ca khải hoàn ca ngợi chiến thắng huy hoàng làm rạng rỡ đất nước. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là bản trường ca bi tráng của những anh hùng thất thế, vẫn hiên ngang chiến đấu, thác cũng không ngừng trả thù...”.
Nếu "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" là bản bi tráng sống mãi cùng lịch sử chống ngoại xâm, thì "Lục Vân Tiên" được xem là bản trường ca ca ngợi chính nghĩa và những đức hạnh quý giá của con người. Dù còn nhiều ý kiến tranh luận, các tác phẩm ấy vẫn giữ nguyên giá trị về nội dung và hình thức. Suốt từ đầu thế kỷ XX đến nay, "Lục Vân Tiên" đã trở thành phần không thể thiếu trong sinh hoạt văn hóa dân gian qua các hình thức nói thơ, hò, vè và ca kịch cải lương. Gần đây, đề tài này còn được chuyển thể thành nhạc kịch hiện đại và phim truyện, minh chứng cho sức sống trường tồn của tác phẩm. “Trên trời có những vì sao sáng khác lạ, con mắt ta phải tinh tường mới nhận ra và cảm nhận được ánh sáng ấy. Văn thơ Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy.”
Về quan điểm văn chương, tuy không trực tiếp luận bàn, nhưng ông có tư tưởng riêng biệt. Khác với quan niệm nhà Nho coi Đạo là đạo trời, ông đề cao đạo làm người, xem văn chương như công cụ chiến đấu vì nhân sinh, mang tinh thần tiến công và nhân ái. Đó là tôn chỉ xuyên suốt trong thơ văn Đồ Chiểu, nơi cái sâu sắc chính là sự rõ ràng trong chê khen, minh bạch giữa chính tà, hòa hợp đạo lý và tình người, đúng chuẩn mực văn hóa Việt Nam, cùng quan điểm coi ngòi bút là vũ khí chiến đấu:
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”.
Tổng thể, các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu giữ vị trí bền vững trong lòng nhân dân. Lý tưởng thẩm mỹ qua các nhân vật anh hùng thể hiện lối sống văn hóa, khí phách anh hùng đậm đà bản sắc Việt Nam, trọng đạo lý và công bằng xã hội, căm ghét áp bức bất công. Qua hơn một thế kỷ, hiếm có nhà văn nào có tác phẩm phổ biến sâu rộng và trường tồn trong đời sống văn hóa dân gian như vậy.
Tóm lại, cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu là minh chứng cho một chiến sĩ kiên cường trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Sự nghiệp thơ ca của ông không chỉ khẳng định vị trí to lớn của văn học nghệ thuật mà còn là lời nhắc nhở sâu sắc về trách nhiệm của người nghệ sĩ trước cuộc đời. Cuộc đời và sự nghiệp của ông mãi là bài học quý giá cho hôm nay và mai sau, xứng đáng là biểu tượng sáng ngời của dân tộc Việt Nam – "Ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc" (Phạm Văn Đồng).

4. Bài văn cảm nhận sâu sắc qua hành trình khám phá cuộc đời và thơ ca Nguyễn Đình Chiểu - mẫu 7
Nguyên Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nhận xét về cuộc đời và thi ca của Nguyễn Đình Chiểu rằng: “Trên bầu trời có những vì sao tỏa sáng rực rỡ khác thường.” Điều khiến chúng ta cảm phục nhất ở cụ chính là tấm gương sáng về ý chí và phẩm hạnh. Ông là người chiến đấu hết mình, sống thẳng thắn, chính trực, mang trong mình nghị lực phi thường, luôn đứng về chân lý, bảo vệ lẽ phải, đấu tranh vì nhân dân – điều khiến ông trở thành biểu tượng đáng kính.
Nguyễn Đình Chiểu sinh năm 1822, mất năm 1888, còn gọi là Đồ Chiểu. Ông học rộng, tài cao, từng đỗ tú tài. Năm 1847, ông ra Huế chuẩn bị thi khoa Kỷ Dậu 1849 nhưng bi kịch ập đến khi mẹ ông qua đời, khiến ông khóc đến mù hai mắt. Sau đó, khi Pháp xâm chiếm Gia Định, ông chuyển về Ba Tri, tỉnh Bến Tre, tiếp tục dạy học và chữa bệnh. Ở đây, ông kết nối mật thiết với các nghĩa binh của Đốc binh Nguyễn Văn Là và lãnh binh Trương Định. Mù lòa không làm ngăn được nhiệt huyết, ông dùng ngòi bút làm vũ khí kêu gọi lòng yêu nước của sĩ phu và dân chúng.
Ông là người trọng đạo lý, giàu tình cảm. Nguyễn Đình Chiểu giữ gìn và tôn vinh bản sắc dân tộc, có lòng yêu ghét phân minh. Vì cứu người, ông không ngần ngại hy sinh, không màng danh lợi. Ý chí kiên cường và lòng trung thực khiến ông không bao giờ khuất phục trước quyền lực áp bức. Ông là tấm gương sáng về nghị lực, dùng văn chương làm vũ khí chiến đấu.
Cụ Đồ Chiểu còn được biết đến là người thầy tận tâm, suốt đời dạy dỗ các thế hệ học trò. Qua những bài giảng về đạo lý, ta thấy hiện lên nhân cách cao cả của một kẻ sĩ. Bên cạnh đó, ông cũng cống hiến lớn cho y học với kiến thức sâu rộng về y học Đông phương và Việt Nam, đồng thời là biểu tượng của y đức. Tác phẩm cuối đời "Ngư Tiều y thuật vấn đáp" không chỉ truyền nghề chữa bệnh mà còn dạy đạo làm người.
Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu là tấm gương sáng chói, càng cảm nhận rõ nét khi ta tiếp cận thơ văn của ông. Thơ ca của cụ thể hiện nỗi lòng yêu nước, thương dân:
"Xưa rằng quốc thử lời khen phải
Giúp sống dân ta trọn lẽ trời"
Những trang thơ văn ấy thổi bùng khí phách đấu tranh bền bỉ của nhân dân Nam Bộ chống Pháp. Qua các bài văn tế, ta cảm nhận rõ tấm lòng ca ngợi sĩ phu, người nông dân nghĩa hiệp. "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" là áng văn bi tráng sống mãi trong lịch sử chống ngoại xâm. Bên cạnh đó, "Lục Vân Tiên" là bản trường ca ca ngợi chính nghĩa, tôn vinh đạo đức và nhân ái, gửi gắm tinh thần tương trợ giữa người với người.
Tiếp nối lời Thủ tướng Phạm Văn Đồng: "Trên trời có những vì sao tỏa sáng đặc biệt, chỉ những con mắt tinh tường mới thấy được và càng nhìn càng sáng." Văn thơ Nguyễn Đình Chiểu thể hiện rõ tinh thần đó. Ông luôn đứng về lẽ phải, kiên quyết chống cái ác và bọn bất nhân. Cụ ca ngợi những người anh hùng như Vân Tiên, Hớn Minh, Tử Trực, và tôn vinh những người thuỷ chung như Kiều Nguyệt Nga, đồng thời phê phán kẻ bất nhân như Trịnh Hâm, Bùi Kiệm, Võ Thế Loan. Tinh thần yêu ghét phân minh, chuẩn mực đạo lý và văn hóa Việt Nam được thể hiện sâu sắc trong thơ văn ông.
"Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà"
Nguyễn Đình Chiểu sống trọn đời vì nghĩa, dù mù lòa và gian khó vẫn giữ vững lòng chính trực, kiên quyết đấu tranh bằng những vần thơ sắc bén. Cuộc đời, sự nghiệp và nhân cách của ông mãi là ngọn đuốc soi sáng văn học và lòng người.

5. Bài văn cảm nhận sâu sắc về cuộc đời và thi ca Nguyễn Đình Chiểu - mẫu 1
Nguyễn Đình Chiểu – một trong những nhà thơ lớn tiêu biểu của dân tộc ta, được Phạm Văn Đồng ca ngợi: "Cuộc đời và sự nghiệp của ông là tấm gương sáng, khẳng định vị thế và sức mạnh của văn học nghệ thuật, đồng thời thể hiện sứ mệnh của người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng." Ông như một ngôi sao rực sáng giữa bầu trời văn học Việt Nam, mà qua cuộc đời và tác phẩm, chúng ta cảm nhận rõ nét ánh sáng ấy.
Ông sinh năm 1822 tại làng Tân Khánh, phủ Tân Bình trong một gia đình quan lại nhỏ ở Gia Định, lớn lên dưới bóng dáng tả quân Lê Văn Duyệt. Là con trưởng trong gia đình đông con và là con vợ lẽ, từ nhỏ ông đã trải qua nhiều thử thách. Khi Nam Kỳ rơi vào tay thực dân Pháp, cha ông bị cách chức, phải lánh về kinh, để ông được gửi ra Huế sống cùng một người bạn cũng mất quyền, qua đó ông chứng kiến rõ những mặt tối của triều đình lúc bấy giờ.
Khoảng năm 1840, ông trở về Nam và năm 1843 thi đỗ tú tài. Dù được hứa hôn, cuộc đời ông vẫn nhiều sóng gió. Năm 1847, khi đang chuẩn bị thi hội, ông phải bỏ thi để chịu tang mẹ vì đau buồn mà mù lòa đôi mắt, một nỗi bất hạnh lớn lao không thể tưởng tượng. Tình duyên cũng không suôn sẻ khi nhà gái bội ước vì ông bị mù. Dẫu vậy, Nguyễn Đình Chiểu đã vượt qua mọi nghịch cảnh, biến nỗi đau thành sức mạnh, đứng vững trong nghịch cảnh, chăm lo gia đình, dạy dỗ em út và trở thành thầy giáo được kính trọng với tấm lòng nhân ái, đồng thời học thêm y thuật chữa bệnh cho dân.
Ý nghĩa cuộc đời ông không nằm ở những điều đã xảy ra mà chính ở cách ông đương đầu với số phận. Đồ Chiểu đã sống và chiến đấu không mệt mỏi cho chân lý, cho công bằng, trở thành tấm gương sáng về đạo đức và nghị lực, đặc biệt trong hoàn cảnh ông mù lòa mà vẫn giữ trọn phẩm hạnh của một bậc thầy, khiến ai cũng kính phục.
Khi thực dân Pháp bắt đầu xâm chiếm đất nước từ năm 1858, ông dùng ngòi bút làm vũ khí chống giặc, kết nối với các nghĩa binh, truyền cảm hứng yêu nước cho nhân dân Nam Bộ. Dù nghèo khó, ông luôn giữ thanh cao, từ chối mọi cám dỗ của kẻ thù, minh chứng cho lòng kiên trung, bất khuất.
Cuộc đời ông là sự hòa quyện tuyệt đẹp giữa lý tưởng sống và nghệ thuật thơ văn. Tác phẩm của ông không chỉ ghi lại thời đại đau thương của dân tộc mà còn là nguồn sức mạnh tinh thần, khích lệ ý chí đấu tranh của nhân dân qua các tác phẩm nổi bật như "Lục Vân Tiên", "Dương Từ - Hà Mậu", "Ngư Tiều y thuật vấn đáp", "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc". Những trang văn thơ ấy vẫn sống mãi trong lòng bạn đọc với lý tưởng nhân nghĩa và tình yêu nước sâu sắc. Qua tác phẩm, ông ca ngợi những người anh hùng như Trương Định, những người nông dân kiên trung, đồng thời lên án những kẻ bất nhân, bất nghĩa.
Tiếng súng xâm lược báo hiệu nỗi đau mất nước, đất nước chìm trong khói lửa, nhưng thơ văn Nguyễn Đình Chiểu vang lên như bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác kẻ thù và ca ngợi tinh thần kiên cường của những nghĩa sĩ. "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" là khúc ca bi tráng về những anh hùng dù thất thế vẫn hiên ngang chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Tác phẩm ấy như cánh buồm lớn ôm trọn cả gió bão, không thể tách rời khí thế sục sôi của phong trào chống ngoại xâm.
Tóm lại, cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu là tấm gương sáng về nghị lực và đạo đức, suốt đời đấu tranh không ngơi nghỉ cho lẽ phải và quyền lợi của nhân dân. Phạm Văn Đồng từng nhận định: "Có những vì sao có ánh sáng khác thường, phải chăm chú nhìn mới thấy, càng nhìn càng sáng." Nguyễn Đình Chiểu chính là vì sao ấy, dù đôi mắt ông mù lòa, nhưng tâm hồn và thơ văn vẫn rực sáng mãi trong lòng người đọc qua mọi thời đại.

6. Bài viết cảm nhận sâu sắc về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu - mẫu 2
Trong nền văn học Việt Nam, hiếm có nhà thơ nào hội tụ đầy đủ tài năng và phẩm chất đạo đức như Nguyễn Đình Chiểu. Ông là người nghệ sĩ lớn của dân tộc, để lại những tác phẩm bất hủ mang dấu ấn sâu sắc trong văn học Việt.
Nguyễn Đình Chiểu, còn gọi là cụ Đồ Chiểu, sinh năm 1822 tại làng Tân Thới, tỉnh Gia Định và mất năm 1888. Cuộc đời ông nhiều thăng trầm, gian khó. Là con trưởng trong gia đình đông con, lại là con của vợ lẽ, ông sớm trải qua cảnh đời cơ cực. Khi Nam Kỳ bị chiếm, năm ông 11 tuổi, cha gửi ông ra Huế ở nhờ nhà bạn. Sau tám năm học tập, ông trở về Nam và năm 1843 đỗ tú tài khi mới 21 tuổi. Năm 1846, ông lại ra Huế ôn thi hội. Ba năm sau, đúng lúc chuẩn bị thi thì ông nhận tin mẹ mất, ông bỏ dở việc học để về chịu tang. Trên đường về, bệnh tình nặng thêm, do đau buồn và điều kiện khắc nghiệt, ông mù cả hai mắt. Giấc mơ công danh dang dở, thân phận mang khiếm khuyết, tưởng như cuộc đời chấm hết. Nhưng bằng nghị lực phi thường, ông vượt qua khó khăn, trở về Gia Định vừa dạy học vừa chữa bệnh cứu người.
Cuộc đời ông là biểu tượng sáng ngời cho tinh thần yêu nước và bất khuất trước quân thù. Dù mù lòa, không thể trực tiếp ra chiến trường, ông vẫn trao đổi công việc nước với Đốc binh, giữ liên lạc với chí sĩ yêu nước Trương Định. Khi tản cư về Ba Tri, ông tiếp tục sáng tác thơ ca cổ vũ chiến sĩ ngoài trận mạc. Nhiều lần thực dân Pháp dụ dỗ mua chuộc, ông cương quyết từ chối và kiên trì đồng hành trong phong trào kháng chiến.
Ông để lại cho văn học Việt nhiều tác phẩm nổi bật mang đậm tư tưởng đạo lý và bản sắc dân tộc như "Dương Từ - Hà Mậu", "Lục Vân Tiên", "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc". Đặc biệt, "Lục Vân Tiên" là tuyệt tác ghi dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả, với nhân vật chính mang hình ảnh ẩn dụ cho chính cuộc đời sóng gió của Nguyễn Đình Chiểu. Các nhân vật trong tác phẩm được khắc họa sinh động, mang sắc thái đa dạng, truyền tải giá trị đạo đức và nhân cách làm người.
Nguyễn Đình Chiểu sẽ mãi là ngọn đèn soi sáng cho văn học dân tộc, thơ văn ông sống mãi trong trái tim người Việt qua mọi thời đại.

7. Bài cảm nhận sâu sắc về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu - mẫu 3
Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng từng nghe câu thơ nổi tiếng:
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.”
Đó chính là quan niệm văn chương của Nguyễn Đình Chiểu – một vì sao sáng trên bầu trời văn học Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp văn học đồ sộ của ông đã để lại những dấu ấn sâu đậm cùng bài học quý giá cho hậu thế.
Nguyễn Đình Chiểu, tên tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ (1822-1888), sinh tại làng Tân Thới, phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định. Năm 1833, ông được cha đưa ra Huế học hành bài bản. Đến năm 1849, khi chuẩn bị thi tú tài, ông nghe tin mẹ mất, trên đường về vì thương tiếc quá mà khóc thương, dẫn đến đôi mắt ông mù lòa. Tấm lòng hiếu thảo ấy càng làm sáng ngời trái tim nhân đạo được thể hiện trong từng tác phẩm của ông. Sau đó, ông dạy học, bốc thuốc chữa bệnh và tham gia kháng chiến cùng nhân dân. Chính sự gắn bó sâu sắc với cuộc sống của người dân nghèo đã khiến thơ văn ông thấm đẫm tinh thần nhân văn và lòng yêu thương, ngợi ca sức mạnh của người nông dân, đồng thời xót thương những hy sinh thầm lặng của họ. Ông mất năm 1888, khi giặc Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây, và với lòng kiên trung không khuất phục, ông ra đi trong nỗi buồn và bệnh tật.
Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu chan chứa tình yêu nước sâu sắc và căm phẫn chế độ cũ. Ông quan niệm văn chương phải là nơi "chở đạo, sửa đời và dạy người"; mỗi câu thơ đều công bằng, rạch ròi trong khen chê, bộc lộ tấm lòng thương dân, yêu nước nồng nàn:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ bầy chim dáo dác bay.”
Những câu thơ ấy chứa đựng nỗi đau thắt lòng cho thân phận dân nghèo, đồng thời căm phẫn giặc xâm lược tàn bạo. Hơn hết, còn là sự khắc khoải da diết:
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này?”
Ông cũng nhấn mạnh những giá trị đạo lý truyền thống của dân tộc như tình cảm gia đình, tình bạn, lòng nghĩa hiệp và khát vọng công bằng, chính nghĩa. Qua các tác phẩm như "Lục Vân Tiên", ông ca ngợi những con người sẵn sàng cứu giúp người gặp hoạn nạn, đồng thời tố cáo những kẻ hám danh, bất nghĩa. Văn chương ông, dùng chữ Nôm giản dị mà sâu sắc, đã tạo nên tượng đài bất tử cho hình ảnh người anh hùng Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Nguyễn Đình Chiểu là nhà Nho tiết tháo, sống theo đạo nghĩa, vừa là người con hiếu thảo, thầy dạy mẫu mực, vừa là chiến sĩ yêu nước và cây bút cổ động tinh thần đấu tranh của dân tộc.

Có thể bạn quan tâm

Khám phá Thọ Xuân (Thanh Hoá) - nơi hội tụ những trải nghiệm du lịch tuyệt vời và đầy hấp dẫn!

Bí quyết Bắt dế Hiệu quả

9 địa chỉ bán điện thoại di động đáng tin cậy hàng đầu tại quận Bình Thạnh, TP. HCM

5 Địa chỉ bọc răng sứ chất lượng và uy tín hàng đầu tại TP. Biên Hòa

Cách giúp chó và thỏ làm quen với nhau
