6 bài phân tích xuất sắc nhất về hai khổ cuối thi phẩm 'Bếp lửa' - Bằng Việt
Nội dung bài viết
1. Bài phân tích mẫu số 4
Từ dòng hồi tưởng về thuở ấu thơ, người cháu chiêm nghiệm về cuộc đời lam lũ của bà. Cả một đời hy sinh thầm lặng, bà vẫn miệt mài nhóm lửa, giữ cho hơi ấm gia đình không bao giờ tắt:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm.
Bà hiện lên như biểu tượng của người phụ nữ Việt - cần mẫn, giàu đức hy sinh. Ngọn lửa bà nhen mỗi bình minh không chỉ bằng củi rơm, mà còn bằng cả ngọn lửa tâm hồn - lửa yêu thương, lửa niềm tin bất diệt. Từ hình ảnh bếp lửa giản dị, cháu nhận ra bao điều "thiêng liêng", "kỳ diệu". Ngọn lửa ấy đã nuôi dưỡng tâm hồn cháu: "Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi thơ". Bà âm thầm gánh vác để: "Bố ở chiến khu, bố còn việc bố". Qua bếp lửa, cháu thấu hiểu nỗi vất vả, gian nan của đời bà.
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui.
Suốt bài thơ, hình ảnh bà gắn liền với bếp lửa qua mười lần hiện diện, toát lên vẻ đẹp của sự tảo tần, đức hy sinh. Và từ "bếp lửa", tác giả đã nâng tầm thành "ngọn lửa" tâm hồn:
Rồi sớm chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Giờ đây, cháu đã trưởng thành, bước vào đời với "niềm vui trăm ngả", "khói trăm tàu", "lửa trăm nhà". Nhưng giữa thế giới rộng lớn ấy, cháu vẫn khắc khoải câu hỏi: "Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?". Mỗi sớm tự vấn là mỗi lần nhớ về bà, hình ảnh người bà mãi là điểm tựa, sưởi ấm tâm hồn cháu trên hành trình cuộc đời.
Bằng Việt đã sáng tạo hình tượng "bếp lửa" đa nghĩa - vừa thực vừa biểu tượng. Chất giọng trầm tư, suy ngẫm đã tạo nên sức ám ảnh khôn nguôi. Bếp lửa trở thành triết lý sống: Những giá trị tinh thần từ thuở ấu thơ sẽ mãi là hành trang nâng đỡ con người. Qua đó, tác giả bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc với bà - cũng chính là tình yêu quê hương đất nước được biểu hiện một cách xúc động.

2. Bài phân tích mẫu số 5
Bằng Việt - gương mặt thơ tiêu biểu trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, mang đến những vần thơ tinh tế với giọng điệu trầm tư sâu lắng. "Bếp lửa" (1963) được sáng tác khi nhà thơ du học tại Liên Xô, là khúc tâm tình xúc động về tình bà cháu, đặc biệt qua hai khổ cuối đầy ám ảnh.
Khổ đầu là dòng suy tưởng thấm thía về cuộc đời bà:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Hình ảnh người bà hiện lên qua nét vẽ "lận đận", "nắng mưa dãi dầu", thức khuya dậy sớm vì con cháu. Bốn chữ "vẫn giữ thói quen" như nén lại bao nỗi niềm thương cảm. Bà tiếp tục nhóm lên:
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Điệp khúc "nhóm" vang lên bốn nhịp như bốn tầng ý nghĩa: từ ngọn lửa ấm áp vật chất đến ngọn lửa tình thương, lửa sẻ chia cộng đồng và cuối cùng là ngọn lửa thắp sáng tâm hồn. Câu thơ kết đúc: "Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!" là sự ngỡ ngàng nhận ra sự chuyển hóa từ cái bình dị thành cái thiêng liêng.
Mười lần bếp lửa hiện diện là mười lần hình ảnh bà in đậm. Khổ kết là lời tự vấn đầy xúc động:
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, tiền vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
"Ngọn khói trăm tàu", "lửa trăm nhà" tương phản với bếp lửa đơn sơ của bà, nhưng chính sự đơn sơ ấy mới là nơi bắt nguồn mọi hạnh phúc. Câu hỏi tu từ cuối bài như lời khẳng định tình yêu bà chính là cội nguồn, là bệ đỡ tinh thần vững chắc nhất.
Bài thơ kết hợp nhuần nhuyễn chất tự sự - trữ tình - triết lí, biến bếp lửa thành biểu tượng nghệ thuật đa nghĩa. Tình bà cháu ở đây không đơn thuần là tình cảm gia đình mà đã hòa vào tình yêu quê hương, như lời Ê-ren-bua: "Lòng yêu nhà yêu làng xóm... trở nên lòng yêu Tổ quốc".

3. Bài phân tích mẫu số 6
Hai khổ cuối 'Bếp lửa' như bức tranh ký ức sống động về người bà tảo tần, khắc sâu vào tâm khảm người cháu hình ảnh một đời lam lũ, hy sinh. Bà trở thành mảnh ghép tâm hồn không thể tách rời, nâng đỡ cháu trên hành trình trưởng thành:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
...
"Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?..."
Ký ức tuổi thơ luôn là hành trang quý giá nhất đời người. Với Bằng Việt, đó là những tháng năm bên bếp lửa bập bùng cùng tình bà ấm áp. Dù cách xa nửa vòng trái đất, trái tim thi sĩ vẫn hướng về nơi ấy:
"Giờ cháu đã đi xa..." - lời thơ như tiếng thở dài đầy thương nhớ. "Ngọn khói trăm tàu", "lửa trăm nhà" không thể che khuất bếp lửa đơn sơ mà thiêng liêng. Câu hỏi cuối bài trở thành lời nhắn gửi đầy xúc động về cội nguồn yêu thương.
Tác phẩm kết hợp hài hòa giữa tự sự - trữ tình - triết lý, biến bếp lửa thành biểu tượng nghệ thuật đa tầng ý nghĩa. Đóng lại bài thơ, hình ảnh bà bên bếp lửa hồng vẫn in đậm như "nét khắc, nét chạm" không phai mờ. 'Bếp lửa' mãi là bài ca xúc động về tình bà cháu, về những gì thiêng liêng nhất của tuổi thơ mỗi con người.

4. Bài phân tích mẫu số 1
"Bếp lửa" (1963) - kiệt tác được Bằng Việt sáng tác khi du học ngành Luật tại nước ngoài, là dòng hồi ức xúc động về tình bà cháu, đặc biệt qua hai khổ cuối đầy ám ảnh. Mười lần bếp lửa hiện diện là mười lần hình ảnh bà in đậm trong tâm khảm - người phụ nữ trở thành điểm tựa tinh thần bất diệt:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
Giữa "khói trăm tàu", "lửa trăm nhà" của cuộc sống hiện đại, bếp lửa quê nghèo vẫn chiếm vị trí thiêng liêng. Câu hỏi tu từ cuối bài như lời tự vấn đầy day dứt, khẳng định tình yêu bà chính là cội nguồn, là ngọn lửa sưởi ấm tâm hồn thi sĩ nơi xứ người giá lạnh.
Hình tượng "bếp lửa ấp iu nồng đượm" đã vượt khỏi ý nghĩa vật chất thông thường, trở thành biểu tượng nghệ thuật đa tầng: vừa là tình bà ấm áp, vừa là quê hương bình dị, vừa là giá trị tinh thần bất diệt. Bài thơ khép lại bằng triết lý sâu sắc: những gì nuôi dưỡng tuổi thơ sẽ mãi là hành trang nâng bước con người trên hành trình cuộc đời.

5. Bài phân tích mẫu số 2
Bằng Việt, nhà thơ trưởng thành trong lửa đạn kháng chiến, đã thổi hồn vào thơ những rung cảm chân thành nhất. Chỉ một tiếng gà cục tác giữa trưa vàng, một bếp lửa chập chờn trong sương mai, mà gợi lên biết bao nỗi niềm sâu lắng. Đó chính là nghệ thuật biến cái bình thường thành phi thường, khi những điều giản dị nhất lại cất giấu những tâm tình thiêng liêng nhất. "Bếp lửa" không đơn thuần là bài thơ - đó là khúc tâm tình đong đầy yêu thương.
Hình ảnh người bà hiện lên qua ngọn lửa ấm áp, trở thành biểu tượng của sự hy sinh thầm lặng. "Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa" - câu thơ như nén chặt bao vất vả một đời người. Bà không chỉ nhóm lửa, mà còn nhóm lên cả tình yêu thương, đạo lý làm người. Những câu thơ lặp đi lặp lại "biết mấy nắng mưa" như tiếng thở dài đầy thương cảm trước số phận.
Điệp khúc "nhóm" vang lên bốn lần trong khổ thơ như bốn nốt nhấn của bản giao hưởng tình bà cháu. Bà nhóm lên không chỉ ngọn lửa vật chất mà còn thắp sáng cả tâm hồn đứa cháu nhỏ. Từ tình yêu gia đình, bà dạy cháu biết yêu quê hương, biết sẻ chia với cộng đồng. Ngọn lửa ấy trở thành hành trang tinh thần vô giá.
Khoảng cách địa lý xa xôi không thể làm phai mờ ký ức. "Có ngọn khói trăm tàu/Có lửa trăm nhà" nhưng cháu vẫn đau đáu một câu hỏi: "Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?". Câu hỏi tu từ khép lại bài thơ như dấu lửng trong lòng người đọc, gợi nhắc về đạo lý uống nước nhớ nguồn.
Bằng nghệ thuật sử dụng hình ảnh biểu tượng sâu sắc, Bằng Việt đã nâng tình bà cháu lên thành tình yêu quê hương đất nước. Bếp lửa trở thành điểm tựa tinh thần, là nguồn sáng dẫn đường cho những bước chân xa xứ. Bài thơ như lời nhắn nhủ thế hệ sau: hãy trân trọng những giá trị gia đình, nguồn cội - nơi bắt đầu của mọi hành trình vĩ đại.

Góc cảm nhận: Bếp lửa yêu thương
Tuổi thơ mỗi người là chiếc rương quý chứa đựng những ký ức thiêng liêng. Với Bằng Việt, đó là những năm tháng ấm áp bên bà cùng bếp lửa hồng - nguồn cảm hứng bất tận cho thi phẩm đong đầy xúc cảm này.
Tám năm tản cư trong khói lửa chiến tranh, hai bà cháu trở thành tri kỷ của nhau. Mỗi sớm mai cùng bà nhóm lửa, hình ảnh bà hiện lên trong làn khói mờ như bà tiên trong cổ tích. Nếu cha mẹ là đôi cánh nâng đỡ thì bà chính là cả bầu trời yêu thương của cháu, là tổ ấm duy nhất giữa bao biến động.
Những vần thơ đầy chiêm nghiệm vẽ nên chân dung người bà tảo tần: 'Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa'. Ngọn lửa bà nhen không chỉ sưởi ấm căn nhà mà còn thắp lên ngọn lửa tình yêu, niềm tin bất diệt. Qua điệp khúc 'nhóm', ta thấy bà không đơn thuần nhóm bếp mà còn nhóm lên cả tình làng nghĩa xóm, nhóm dậy những ước mơ đầu đời.
Dù giờ đây 'có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả', người cháu xa xứ vẫn khắc khoải câu hỏi: 'Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?'. Bếp lửa ấy đã trở thành điểm tựa tâm hồn, là hành trang theo cháu suốt hành trình trưởng thành.
Bằng nghệ thuật ẩn dụ tinh tế, Bằng Việt đã nâng tình bà cháu thành triết lý sống sâu sắc: Những gì nuôi dưỡng tâm hồn thuở ấu thơ sẽ mãi là ngọn đèn soi rọi cả cuộc đời.

Có thể bạn quan tâm

Top 3 Tiệm chụp ảnh thẻ lấy ngay đẹp nhất tại Bắc Giang

Cách Đông lạnh Bí Tươi Hiệu quả

Khám phá 5 loại kem dưỡng mắt hiệu quả giúp giảm quầng thâm và ngăn ngừa nếp nhăn

Top 10 công thức làm thạch rau câu thơm ngon, hấp dẫn ngay tại nhà

12 thực phẩm tuyệt vời hỗ trợ vòng 2 thon gọn và săn chắc
