Top 10 bài văn nghị luận đặc sắc về "Dục Thúy Sơn" của Nguyễn Trãi (Ngữ văn 11 - SGK Kết nối tri thức)
Nội dung bài viết
1. Bài nghị luận tiêu biểu về "Dục Thúy Sơn" của Nguyễn Trãi - Mẫu số 4
Nguyễn Trãi từng viết: “Túi thơ chứa hết mọi giang san”, và quả thật, qua từng vần thơ của Ức Trai, người đọc có thể cảm nhận trọn vẹn vẻ đẹp non sông gấm vóc. Từ Côn Sơn, Yên Tử đến Vân Đồn, chùa Tiên Du, Lam Sơn… và đặc biệt là vùng non nước Ninh Bình – nơi Dục Thúy Sơn nổi bật như một viên ngọc xanh thẳm giữa “vịnh Hạ Long cạn”. Núi Dục Thúy không chỉ là tuyệt tác thiên nhiên mà còn là nguồn cảm hứng bất tận cho biết bao thi sĩ tài danh như Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh, Tản Đà… và Nguyễn Trãi – người đã viết về Dục Thúy với hai mạch cảm hứng sâu sắc: tình yêu thiên nhiên và nỗi hoài cổ thẳm sâu. Từng câu thơ của Ức Trai như chở nặng hồn người, khi thì ngợi ca vẻ đẹp tiên cảnh mơ màng, khi lại gửi gắm triết lý nhân sinh về sự hữu hạn của kiếp người trước thiên thu vĩnh hằng. Núi như đoá sen nổi trên mặt nước, bóng tháp như trâm ngọc soi mình xuống làn sông biếc – tất cả tạo nên bức tranh thơ tuyệt mỹ, đầy chất nhân văn, làm say lòng bao thế hệ độc giả. Và dù năm tháng qua đi, cảnh sắc vẫn vẹn nguyên, chỉ có lòng người thêm phần thấm thía trước những biến thiên vô thường của đời người và tạo vật.

2. Bài nghị luận sâu sắc về "Dục Thúy Sơn" của Nguyễn Trãi - Mẫu số 5
Nguyễn Trãi từng viết: “Túi thơ chứa hết mọi giang san”, và quả thật, mỗi bước chân ông qua đều để lại những vần thơ thấm đẫm tình yêu non nước. Từ Côn Sơn, Yên Tử đến Vân Đồn, Lam Sơn, trong lòng thơ Ức Trai luôn bừng sáng vẻ đẹp quê hương đất nước. Đặc biệt, với Ninh Bình - miền “vịnh Hạ Long cạn” - ông dành trọn cảm hứng để viết về Dục Thúy Sơn, nơi được ví như “núi tiên, cảnh tiên” giữa trần gian. Không chỉ mô tả cảnh sắc mê hoặc lòng người, Nguyễn Trãi còn gửi gắm vào đó triết lý nhân sinh sâu sắc, nỗi hoài cổ về sự mong manh kiếp người giữa dòng chảy vô tận của thời gian. Cảnh vật trong thơ ông không đơn thuần là tả thực mà là sự hòa quyện giữa thiên nhiên và tâm hồn, giữa cái đẹp thoát tục và tình yêu sâu đậm dành cho quê hương. Hình ảnh tháp bảo soi mình xuống làn nước biếc, ngọn núi tựa đóa sen thanh khiết hay bóng tháp như trâm ngọc trên mái tóc xanh... tất cả đều lung linh huyền ảo, vừa gợi cảm vừa thấm đẫm nhân văn. Và khi mạch cảm xúc bất chợt chuyển hướng, từ chiêm ngưỡng vẻ đẹp vĩnh hằng của non nước đến nỗi niềm hoài cổ, nhớ về Trương Hán Siêu và phảng phất nỗi buồn nhân thế, thơ Nguyễn Trãi chạm tới tận cùng sự tinh tế của tâm hồn Việt. Dục Thúy Sơn, qua hồn thơ Ức Trai, không chỉ là thắng cảnh mà còn là biểu tượng sống động của tình yêu thiên nhiên, lòng tự hào dân tộc và triết lý nhân sinh vĩnh cửu.

3. Bài nghị luận sâu sắc về "Dục Thúy Sơn" của Nguyễn Trãi - Mẫu số 6
Văn học trung đại – một khoảng trời ký ức xa xăm nơi tâm hồn và thế sự đất nước hòa quyện trong từng vần thơ sâu lắng của những bậc hiền tài. Âm vang hậu thế còn mãi với những câu thơ chan chứa hào khí:
“Rồng ẩn Lam Sơn lúc đợi thời
Trong tay thế sự rõ mười mươi
Xoay đời trời sáng sinh vua giỏi
Gặp bạn hùm thiêng nổi gió tài
Hận nước nghìn năm vừa rửa sạch
Hòm vàng muôn thuở chắc không phai
Giang sơn đổi mới từ đây nhỉ
Thử đếm anh hùng được mấy ai?”
Lời thơ ngợi ca Nguyễn Trãi – bậc thánh nhân, ngôi sao Khuê tỏa sáng rực rỡ trên bầu trời nghệ thuật, người đã gửi vào trang viết không chỉ tri thức sâu sắc mà còn là tình yêu thiên nhiên da diết, lòng nhân nghĩa thẳm sâu. Với tâm hồn lãng mạn và phong cách trữ tình mà không kém phần mạnh mẽ, Nguyễn Trãi đã thổi hồn vào từng cảnh đẹp quê hương bằng thơ ca, như khoác lên thiên nhiên lớp áo diệu kỳ mà vẫn giữ nguyên nét chân thực tinh khôi. Núi Dục Thúy – viên ngọc xanh của Ninh Bình – qua thơ ông hiện lên như chốn bồng lai, mở ra cho người đọc hành trình khám phá vẻ đẹp siêu thực và tấm lòng đầy hoài cảm của người thi nhân.
Núi Dục Thúy, danh thắng nổi tiếng đất Ninh Bình, xuất hiện trong tập thơ Hán văn "Ức Trai Thi Tập" của Nguyễn Trãi dưới cái tên Dục Thúy Sơn đầy thơ mộng. Nghe tên thôi, lòng người đã ngập tràn những liên tưởng đến miền non nước hữu tình. Từ tên gọi Sơn Thúy ban đầu, núi được Trương Hán Siêu đặt lại là Dục Thúy, gợi lên hình ảnh trong trẻo của thiên nhiên, như thể đất trời ban tặng cho nhân gian một bức tranh thanh khiết. Vùng đất ấy từ lâu đã là nguồn cảm hứng vô tận cho các thi nhân, nhưng mỗi người đến với Dục Thúy lại mang một nét riêng, và Nguyễn Trãi – với hai nguồn cảm hứng: thiên nhiên và hoài cổ – đã để lại dấu ấn không thể phai nhòa.
Trong cảm hứng thiên nhiên, Nguyễn Trãi dành trọn trái tim mình cho vẻ đẹp thần tiên của Dục Thúy. Trong bài "Vọng Doanh", ông viết:
“Dục Thúy vũ tình phong tự ngọc”
Cảnh núi non, cửa biển trong thơ ông hiện lên như một miền tiên cảnh:
“Hải khẩu hữu tiên san
Tiền niên lũ vãng hoàn”
Từ "Tiên" gợi lên điều kỳ diệu, siêu thoát khỏi thế tục. Núi Dục Thúy, qua ngòi bút Nguyễn Trãi, hiện lên như tặng vật của trời đất, là điểm giao hòa giữa đất và trời, giữa non và nước, một bức tranh thanh tú và lãng mạn. Mỗi lần trở lại nơi đây, trái tim thi nhân lại xao xuyến khôn nguôi, như chưa từng cũ.
Với hai câu thực, ông khéo léo dùng hình ảnh hoa sen để tả núi Dục Thúy:
“Liên hoa phù thủy thượng
Tiên cảnh truỵ trần gian”
Đóa sen nổi trên mặt nước, biểu tượng của sự thuần khiết và linh thiêng, khiến Dục Thúy hiện lên như một cảnh tiên rơi xuống cõi người. Cảm hứng thiên nhiên kết hợp chất mộng mơ làm lòng người nhẹ bẫng, bay lên giữa không gian huyền ảo.
Đến hai câu luận, Nguyễn Trãi chạm tới một vẻ đẹp khác khi ông miêu tả bóng tháp trên đỉnh núi:
“Tháp ảnh trâm thanh ngọc
Ba quang kính thúy hoàn”
Ngọn tháp soi bóng xuống nước, được ông ví như chiếc trâm ngọc cài trên mái tóc xanh biếc của thiếu nữ. So với Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi mang đến một góc nhìn đầy chất thơ và trữ tình, thổi hồn người vào cảnh vật, biến thiên nhiên thành hiện thân của con người. Đó là sự đa tình, trẻ trung và bay bổng của tâm hồn ông.
Và rồi cảm hứng thiên nhiên nhường chỗ cho cảm hứng hoài cổ trong hai câu kết:
“Hữu hoài Trương Thiếu Bảo
Bi khắc tiển hoa ban”
Nhớ về Trương Hán Siêu, ông xót xa khi bia đá đã rêu phong, trong khi cảnh vật còn đó, người thì đã khuất. Sự hữu hạn của kiếp người đối lập với sự vĩnh hằng của thiên nhiên trở thành nỗi buồn sâu thẳm. Đó cũng là cái nhìn đầy nhân văn và triết lý về thời gian, về thế sự mà Nguyễn Trãi luôn đau đáu.
Qua "Dục Thúy Sơn", Nguyễn Trãi không chỉ vẽ nên bức tranh thiên nhiên tuyệt sắc mà còn gửi gắm tình yêu đất nước, lòng nhân ái, tinh thần nhân bản sâu sắc. Cảm xúc lãng mạn hòa quyện với suy tư thế sự đã làm nên hồn thơ Ức Trai – mãi mãi là ngôi sao Khuê sáng ngời trên bầu trời văn học dân tộc.

4. Bài nghị luận sâu sắc về "Dục Thúy Sơn" của Nguyễn Trãi - Phiên bản mẫu 7
Một nét đẹp sâu lắng trong tâm hồn thi nhân Nguyễn Trãi qua bài thơ “Dục Thúy Sơn” chính là tấm lòng hoài cổ nặng nghĩa ân tình. Chiêm ngưỡng cảnh sắc núi non hùng vĩ, ông bỗng chạnh lòng nhớ về Trương Hán Siêu – danh sĩ lỗi lạc đời Trần, người từng gắn bó sâu đậm với Dục Thúy Sơn này.
Nhìn lớp rêu phong phủ kín tấm bia đá cũ, lòng ông không khỏi quặn thắt. Phải chăng đã lâu chẳng ai còn lui tới? Phải chăng người ta đã quên mất một bậc tài danh? Nỗi buồn khôn nguôi ấy vang vọng tinh thần “Uống nước nhớ nguồn” mà Nguyễn Trãi muốn gửi gắm.
Lời thơ ngân vang niềm xót xa, cảm xúc sâu lắng lay động tâm hồn độc giả. Bên cạnh sự nhạy cảm trước thiên nhiên, Nguyễn Trãi còn hiện lên là người trân quý tài năng và yêu nước nồng nàn. Ngọn núi xưa kia có tên Băng Sơn, đến đời Trần được Trương Hán Siêu đổi tên thành Dục Thúy Sơn – “ngọn núi tắm màu biếc”, nay gọi là núi Non Nước, thuộc thị xã Ninh Bình, nơi hội tụ bao tao nhân mặc khách dừng chân và lưu lại vần thơ bất hủ.
Trên núi từng có chùa, có tháp soi bóng bên sông Vân thơ mộng, Sông Vân núi Thúy là biểu tượng của vẻ đẹp hữu tình. Sách “Đại Nam nhất thống chí” cũng lưu lại dấu tích nơi đây: nào động thờ Tam phủ, nào bia khắc chữ “Hám Giao Đình”, đền thờ Sơn Tinh, Thủy Tinh, chùa trên đỉnh… tất cả là bức tranh quá khứ hào hùng.
Song thời gian phủ bụi, biển đổi núi dời, chùa tháp xưa nay chỉ còn phế tích. Nhưng ký ức về Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi, Cao Bá Quát, Tản Đà… cùng những vần thơ bất diệt về Dục Thúy Sơn vẫn mãi sáng trong. Bài thơ trong “Ức Trai thi tập” của Nguyễn Trãi là bản hòa ca giữa vẻ đẹp thiên nhiên và tâm hồn đa cảm. Bước chân thi nhân từng lưu dấu khắp non sông: khi vượt Bạch Đằng giương buồm thi hứng, lúc say đắm cùng núi Long Đại kỳ vĩ:
“Ngao đội núi lên thành động đấy
Kình bơi biển lấp hoá ao rồi”
Hay khi thanh thản hành hương về chùa Hoa Yên trên đỉnh Yên Tử, thả hồn cùng mây trắng rừng trúc:
“Muôn hàng giáo ngọc tre gài cửa,
Bao dãi tua châu đá rủ mành”
Những năm tháng xông pha đất nước, Nguyễn Trãi đã in dấu chân mình khắp chốn giang sơn. Khi đất nước thanh bình, ông lại cùng bầu rượu túi thơ tìm về núi sông hùng vĩ. Và Dục Thúy Sơn mãi là miền đất thiêng ghi dấu tâm hồn thi sĩ muôn đời.

5. Bài nghị luận tinh tế về Dục Thúy Sơn của Nguyễn Trãi - Phiên bản mẫu 8
Bài thơ “Dục Thúy Sơn” của Nguyễn Trãi là bản hòa ca tuyệt mỹ ca ngợi vẻ đẹp thanh tao của núi Dục Thúy. Qua từng câu chữ, tâm hồn thi sĩ được bộc lộ sâu sắc khi ông miêu tả cảnh sắc thiên nhiên đầy chất thơ và cảm xúc.
Nguyễn Trãi ví ngọn núi như một đóa sen tinh khiết, ví bóng tháp như chiếc trâm ngọc, và hình ảnh núi dưới làn sóng nước như đang soi mái tóc mây. Những so sánh tài hoa ấy khắc họa một vẻ đẹp thanh khiết, tao nhã của Dục Thúy Sơn, đồng thời bộc lộ tâm hồn nhạy cảm, đa cảm và giàu chất thơ của tác giả.
Sáu câu thơ đầu là bức tranh sơn thủy tuyệt sắc, vẽ nên vẻ đẹp “non tiên” giữa cửa biển bằng bút pháp điêu luyện. Dẫu từng ghé thăm nhiều lần, nhưng lần này thi nhân vẫn ngỡ ngàng trước vẻ đẹp thần tiên ấy, như lạc vào cõi Bồng Lai mơ mộng:
“Cửa biển có non tiên,
Từng qua lại mấy phen.”
Người đọc cùng thi nhân bồng bềnh lạc bước vào chốn thần tiên giữa trần gian. Từ “tiên san” đến “tiên cảnh” mở rộng cảm xúc, làm bật lên nét đẹp hiếm có của Dục Thúy Sơn. Hình ảnh núi như hoa sen xoè nở trên mặt nước, tượng trưng cho sự thanh khiết và cao quý, mang dấu ấn sâu đậm của văn hóa Phật giáo.
Hoa sen – biểu tượng của tinh thần thuần khiết, của những giá trị vĩnh cửu, được Nguyễn Trãi đưa vào thơ một cách tự nhiên và bay bổng. Hai hình ảnh “phù” và “trụy” đối lập nhưng hòa quyện, tạo nên những rung động trầm bổng khó quên:
“Liên hoa phù thuỷ thượng,
Tiên cảnh trụy trần gian.”
Bóng tháp soi xuống nước, tựa trâm ngọc xanh. Ánh sáng mặt sông lung linh như mái tóc tiên nữ, tất cả được vẽ nên bằng bút pháp tinh tế, tràn đầy mỹ cảm:
“Tháp ảnh trâm thanh ngọc,
Ba quang kính thúy hoàn.”
Dục Thúy Sơn xưa kia nằm bên cửa biển, trên núi có chùa tháp soi mình xuống sông Vân thơ mộng. Từng bước chân Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi, và biết bao tao nhân mặc khách đã in dấu nơi đây, để lại những áng thơ ca bất hủ. Nguyễn Trãi với tài hoa của mình đã thổi vào cảnh sắc Dục Thúy một hồn thơ bay bổng, một vẻ đẹp siêu thoát, nâng tầm danh thắng thành chốn bồng lai giữa thế gian.
Với chuỗi hình ảnh ẩn dụ sắc nét, Nguyễn Trãi đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên đầy huyền diệu và sâu lắng. Ông không chỉ ca ngợi cảnh sắc mà còn bày tỏ tình yêu tha thiết với đất nước, với con người, làm say lòng bao thế hệ người đọc.

6. Bài nghị luận sâu sắc về Dục Thúy Sơn của Nguyễn Trãi - Phiên bản mẫu 9
Bài thơ “Dục Thúy Sơn” của Nguyễn Trãi vẽ nên bức tranh sơn thủy hữu tình, nơi thiên nhiên giao hòa với tâm hồn thi sĩ. Qua từng câu thơ, Nguyễn Trãi thể hiện một tâm hồn nhạy cảm, yêu cái đẹp và sâu sắc trong cảm xúc.
Ông ví Dục Thúy Sơn như đóa sen thanh khiết, bóng tháp như trâm ngọc, hình ảnh núi soi bóng trên sóng nước như mái tóc mây huyền ảo. Sáu câu đầu bài thơ là bản hòa ca tuyệt mỹ về non nước, được dệt nên bằng bút pháp tinh tế và giàu chất thơ. Cảnh sắc tưởng như quen thuộc nhưng vẫn khiến thi nhân bâng khuâng như lạc vào chốn Bồng Lai thần tiên:
“Cửa biển có non tiên,
Từng qua lại mấy phen.”
Thi nhân cùng người đọc du ngoạn vào cõi tiên mơ mộng, nơi cảnh vật hòa quyện giữa thực và ảo. Núi được ví như bông sen lớn xoè nở trên mặt nước, gợi lên vẻ đẹp thanh cao, biểu tượng của đạo Phật và tinh thần thuần khiết.
Những liên tưởng tuyệt diệu giữa “phủ” và “trụy” đã gợi nên sự chuyển động mềm mại, tạo nên không gian thiêng liêng, hư thực hòa quyện:
“Liên hoa phù thuỷ thượng,
Tiên cảnh trụy trần gian.”
Bóng tháp như trâm ngọc, ánh sóng như gương tóc huyền, tất cả tạo nên một cảnh sắc ngoạn mục, lung linh sắc màu của tiên giới:
“Tháp ảnh trâm thanh ngọc,
Ba quang kính thúy hoàn.”
Dục Thúy Sơn nằm bên sông Vân, từng là cửa biển xưa. Nơi đây có chùa và tháp, là điểm dừng chân của bao tao nhân mặc khách. Nguyễn Trãi tiếp nối mạch thơ tiền nhân, tô vẽ thêm bằng trái tim nghệ sĩ, làm sáng bừng danh thắng bằng những vần thơ bất hủ.
Với những ẩn dụ tinh tế, Nguyễn Trãi khắc họa thiên nhiên Dục Thúy như một bức tranh huyền diệu, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người yêu thơ muôn đời.

7. Bài nghị luận thấm đẫm thi vị về Dục Thúy Sơn của Nguyễn Trãi - Phiên bản mẫu 10
Tình yêu thiên nhiên luôn là nguồn cảm hứng bất tận của nhiều nhà thơ trung đại, đồng thời ẩn chứa tâm trạng hoài cổ sâu lắng. Bài thơ Dục Thúy Sơn, trích từ tập Ức Trai thi tập, được sáng tác sau cuộc kháng chiến chống quân Minh và trước khi Nguyễn Trãi lui về ẩn cư tại Côn Sơn, là minh chứng điển hình cho cảm hứng ấy.
“Hải khẩu hữu tiên san
Tiền Niên lũ vãng hoàn”
(Cửa biển có ngọn núi tiên
Năm xưa ta đã nhiều lần qua lại nơi này)
Từ “tiên” mang sắc thái kỳ diệu, khiến núi Dục Thúy hiện lên như chốn bồng lai tiên cảnh, món quà vô giá mà trời đất ban tặng. Vẻ đẹp toàn cảnh núi được khắc họa sinh động qua:
“Liên hoa phù thủy thượng
Tiên cảnh trụy trần gian”
(Cảnh tiên nơi cõi tục
Mặt nước nổi hoa sen)
Núi Dục Thúy như đóa sen thanh khiết nổi trên mặt nước, biểu tượng cho sự thoát tục và thanh cao, gắn liền với văn hóa Phật giáo. Ngôn từ tinh tế tạo nên hình ảnh sống động, từ “phù” là nổi nhẹ nhàng, lay động, còn “trụy” là rơi nhẹ từ trên cao xuống, đem lại cảm giác chuyển động dịu dàng.
“Tháp ảnh trâm thanh ngọc
Ba quang kính thúy hoàn”
(Bóng tháp như trâm ngọc
Ánh sáng sông soi mái tóc xanh)
Bóng tháp và ánh sáng sóng nước được ví von với vẻ đẹp trong trẻo, tinh khôi của người con gái, khiến thiên nhiên và con người hòa quyện, phản chiếu tâm hồn tinh tế của Nguyễn Trãi.
“Hữu hoài trương Thiếu bảo
Bi khắc tiền hoa ban”
(Nhớ xưa Trương Thiếu bảo
Bia đá in dấu rêu phong)
Câu thơ cuối bộc lộ nỗi niềm trầm tư về lịch sử và con người, tôn vinh danh sĩ Trương Hán Siêu – bậc danh nhân gắn liền với Dục Thúy Sơn, đồng thời phản ánh sự vô thường của thời gian và cảnh vật.
Bài thơ sử dụng thể thơ ngũ ngôn bát cú, kết hợp nhiều hình ảnh ẩn dụ, so sánh đối đáp, thể hiện rõ nét vẻ đẹp thần tiên của núi Dục Thúy và tấm lòng hoài niệm của tác giả, làm nên một tuyệt tác văn hóa của Đại Việt thế kỷ XV.

8. Bài văn nghị luận về Dục Thúy Sơn của Nguyễn Trãi - mẫu 1
Tình yêu thiên nhiên luôn là nguồn cảm hứng bất tận trong thơ ca Nguyễn Trãi, nơi ẩn chứa những suy tư sâu sắc về cuộc đời và thế sự. Bài thơ "Dục Thúy Sơn", sáng tác theo thể ngũ ngôn luật thi bằng chữ Hán, đã khắc họa sinh động vẻ đẹp nên thơ của ngọn núi nổi tiếng này.
"Hải khẩu hữu tiên san"
(Cửa biển có ngọn núi tiên)
Cụm từ "tiên san" gợi lên hình ảnh núi tiên thanh thoát, vững chãi bên cửa biển, nơi thi nhân từng nhiều lần ghé qua nhưng vẫn cảm thấy như chốn bồng lai. Cảnh sắc nơi đây vừa hùng vĩ vừa dịu dàng, khiến lòng người say đắm:
"Liên hoa phù thủy thượng;
Tiên cảnh trụy trần gian."
Hình ảnh núi Dục Thúy như đóa sen thanh khiết nở rộ giữa dòng nước trong xanh, biểu tượng cho sự thuần khiết, thanh cao. Tác giả sử dụng ẩn dụ tài tình, khiến cảnh sắc thiên nhiên hiện lên như chốn tiên cảnh huyền ảo.
"Tháp ảnh trâm thanh ngọc;
Ba quang kính thúy hoàn."
Khác với Trương Hán Siêu chỉ mô tả bóng tháp in trên mặt nước, Nguyễn Trãi sáng tạo khi ví bóng tháp như chiếc trâm ngọc xanh của thiếu nữ, ánh sáng sóng nước như mái tóc xanh biếc. So sánh hiện đại, tinh tế, thể hiện tình yêu thiên nhiên qua trái tim đong đầy cảm xúc.
"Hữu hoài Trương Thiếu bảo;
Bi khắc tiển hoa ban."
Nhà thơ bồi hồi nhớ về danh sĩ Trương Hán Siêu qua tấm bia rêu phong, thể hiện lòng biết ơn sâu sắc và sự trân trọng giá trị lịch sử bất biến dù thời gian trôi qua.
Bằng bút pháp tinh tế và các biện pháp tu từ đa dạng, Nguyễn Trãi đã tạo nên bức tranh Dục Thúy Sơn vừa huyền ảo vừa chân thực, vừa là cảnh sắc thiên nhiên vừa chứa đựng nỗi niềm tri ân con người và lịch sử.
"Dục Thúy Sơn" không chỉ là tác phẩm nghệ thuật đặc sắc mà còn là biểu tượng cho tâm hồn yêu thiên nhiên, lòng nhớ nguồn của Nguyễn Trãi.

9. Bài văn nghị luận về Dục Thúy Sơn của Nguyễn Trãi - mẫu 2
Nguyễn Trãi – một thiên tài văn hóa của dân tộc, để lại dấu ấn sâu đậm qua những tác phẩm bất hủ, trong đó "Dục Thúy Sơn" nổi bật như một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ và trữ tình. Bài thơ mở ra không gian cảnh sắc kỳ vĩ nơi cửa biển với hình ảnh như tiên cảnh:
Cửa biển có non tiên
Từng qua lại mấy phen
Khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, sông nước mênh mông hòa cùng những ngọn núi cao sừng sững như chốn thần tiên khiến tâm hồn người thưởng thức xao xuyến, dạt dào cảm xúc. Dục Thúy Sơn trở thành điểm đến lý tưởng, nơi thiên nhiên và con người giao hòa, vẽ nên bức tranh sinh động và thơ mộng.
Bóng tháp hình trâm ngọc
Gương soi ánh tóc huyền
Hình ảnh bóng tháp như chiếc trâm ngọc xanh nhẹ nhàng cài trên mái tóc thiếu nữ, ánh sáng lung linh phản chiếu trên mặt nước trong vắt, là sự hòa quyện tinh tế giữa thiên nhiên và vẻ đẹp con người. Nguyễn Trãi đã khéo léo lấy nét đẹp duyên dáng của người thiếu nữ để hình dung cho cảnh vật, một cách liên tưởng đầy sáng tạo và hiện đại.
Tình thư một bức phong còn kín
Gió nơi đâu, gượng mở xem
Giữa cảnh sắc trữ tình ấy, những lời tâm sự, những tình thư như vẫn còn ẩn giấu trong từng cơn gió thoảng, gợi mở những cảm xúc sâu lắng của con người trước thiên nhiên và vận nước. Tâm trạng buồn man mác hòa quyện cùng sự hùng vĩ của núi non, bộc lộ nỗi lòng trăn trở của thi nhân với vận mệnh dân tộc.
Nguyễn Trãi, dù ẩn dật nơi Dục Thúy Sơn, vẫn luôn hướng về vận nước, lo lắng cho tương lai của dân tộc qua từng câu chữ đầy suy tư và xúc cảm, để lại một tác phẩm vừa nghệ thuật vừa giàu tính triết lý sâu sắc.

10. Bài văn nghị luận về Dục Thúy Sơn của Nguyễn Trãi - mẫu 3
Dục Thúy Sơn, trước kia gọi là núi Băng Sơn, từ thời Trần đã được đổi tên thành Dục Thúy Sơn – ngọn núi nhuốm màu xanh biếc huyền ảo; ngày nay gọi là núi Non Nước, tọa lạc tại thị xã Ninh Bình. Nơi đây từng là thắng cảnh được nhiều danh sĩ, tao nhân, mặc khách ngợi ca qua thơ ca. Trên núi có chùa, tháp uy nghiêm; núi gần cửa biển, quanh co dòng sông Vân tạo nên bức tranh sơn thủy hữu tình đầy thơ mộng. Theo sách “Đại Nam nhất thống chí”, trên núi còn có đền thờ Tam phủ, bia khắc chữ “Hám Giao Đình”, đền Sơn Tinh – Thủy Tinh và nhiều di tích linh thiêng khác.
Thời gian thấm thoắt trôi, chùa tháp ngày xưa nay đã phế tích, biển lùi xa hàng chục cây số. Nhưng Dục Thúy Sơn vẫn in đậm trong tâm trí qua thi ca của Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi, Cao Bá Quát, Tản Đà... Trong "Ức Trai thi tập", Nguyễn Trãi từng say mê ngắm cảnh sắc thần tiên của Dục Thúy Sơn và tâm sự sâu lắng về vận nước. Ông cũng đã chu du khắp non sông, từ Bạch Đằng đến núi Long Đại, từ chùa Hoa Yên trên Yên Tử với rừng tre, hang đá thanh tịnh, ghi dấu một đời thơ đầy trăn trở và tình yêu thiên nhiên đất nước.
Bức tranh núi Dục Thúy qua ngòi bút Nguyễn Trãi hiện lên rực rỡ với nét vẽ tài hoa, cảm xúc dạt dào. Dù cảnh vật đã quen thuộc, mỗi lần đến vẫn không khỏi ngỡ ngàng trước vẻ đẹp “non tiên” như cõi bồng lai mà cổ tích Từ Thức từng kể. Ngọn núi hiện ra như bông sen khổng lồ giữa mặt nước, ẩn dụ “liên hoa phù thủy thượng” vừa thực vừa ảo, vừa thanh khiết lại huyền diệu, mang đậm tinh thần Phật giáo và vẻ đẹp văn hóa dân tộc.
Hình ảnh bóng tháp trên mặt nước như chiếc trâm ngọc xanh cài trên mái tóc thiếu nữ, ánh sáng lung linh soi bóng tóc biếc, tạo nên bức tranh sống động và đầy nghệ thuật. Dục Thúy Sơn không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên mà còn là nơi hội tụ tinh thần, văn hóa và tâm hồn của nhiều thế hệ danh nhân, qua những bài thơ, ký tích và di tích còn lại.
Những câu thơ cuối, dòng cảm xúc của Nguyễn Trãi chất chứa nỗi hoài niệm về người xưa – Trương Hán Siêu, bậc danh sĩ đời Trần, người có công lớn với đất nước, tên tuổi gắn liền với Dục Thúy Sơn và Văn Miếu Thăng Long. Hình ảnh bia rêu phong phủ đầy nét chữ cũ kỹ gợi nhắc về sự biến thiên của thời gian, sự bền vững của tinh thần “uống nước nhớ nguồn”.
"Dục Thúy Sơn" không chỉ là bài thơ trữ tình mà còn là biểu tượng văn hóa, nghệ thuật tiêu biểu cho tâm hồn lớn của Đại Việt thế kỷ XV – nơi hòa quyện giữa thiên nhiên hùng vĩ và lòng người tài hoa, sâu sắc.

Có thể bạn quan tâm

Các loại rau củ giàu dưỡng chất phù hợp cho bé trong giai đoạn ăn dặm

Ăn chay có nên dùng hành tỏi hay không?

11 cách khiến bạn bè sợ hãi qua những tin nhắn kinh dị

Khám phá 4 mẫu bút bi có thiết kế cực kỳ ấn tượng và khác biệt

Khám phá 6 điểm đến giải trí nổi bật tại quận Tân Phú, đầy thú vị và hấp dẫn
