Top 11 thi phẩm trào phúng đặc sắc nhất của nhà thơ Tú Mỡ
Nội dung bài viết
1. Mùa xuân
Dung dăng dung dẻ
Đưa bé dạo chơi
Xuân đã về rồi
Rực rỡ ánh sáng
Mây bồng lãng đãng
Giữa trời trong xanh
Gió lùa mênh mang
Trời cao khoáng đạt
Vườn xuân bát ngát
Cỏ mướt mơn man
Hoa đào rạng rỡ
Sưởi ấm vườn thơ
Chim hót vang lừng


2. Ông và cháu
Làm ông đâu dễ
Phải yêu thương
Hiểu trẻ con
Mới nên chuyện;
Biết dỗ dành
Chừng mực đúng,
Biết dạy dỗ
Bằng yêu thương;
Biết trò vui
Trẻ mê mẩn,
Chuyện cổ tích
Phải nhớ nhiều;
Kể sao khéo
Cho lôi cuốn;
Biết gấp giấy
Thành bao điều:
Làm chú lính,
Làm con thuyền,
Làm chim sáo,
Ngựa phiêu du...
Biết làm bò
Cho cháu cưỡi,
Hát ca vui
Dạy đôi ba,
Cùng vỗ tay
Mà biểu diễn;
Biết xử kiện
Rõ công minh,
Lời hòa nhã,
Lý đúng đường;
Trẻ thơ vốn
Hay tò mò,
Hỏi bất ngờ
Câu hóc búa:
“Tại sao vậy?”
“Ai làm nên?”
“Thế là gì?”
Nhiều lúc bí…
Ông suy nghĩ
Rồi đáp ngay.
Cháu với ông
Hai thế hệ
Già và trẻ
Thêm gần nhau,
Đầy ấm áp
Cửa nhà vui.


3. ...Và ông già trẻ
Trái đời thay, lắm cụ tuổi cao
Diện mạo bày trò trẻ trung sao!
Tóc nhuộm đen như thời trai trẻ
Râu cạo nhẵn, dáng vẻ...phong trào
Chơi đua vui vẻ, còn tráng kiện
Đụng việc thì rên: “Tôi đã già!”
Thấy bóng hồng, mắt liền long sớt
Đa tình đến độ chẳng vừa lòng.


4. Mười thương
Một thương mái tóc chẻ ngôi,
Hai thương áo trắng, khăn xinh điểm màu.
Ba thương má phấn môi đào,
Bốn thương răng trắng đều sao sớm rằm.
Năm thương lược Huế cài thầm,
Sáu thương chiếc ô xanh rằm trời mây.
Bảy thương bạc gởi đầy tay,
Tám thương quyền nữ giở ngay khi cần.
Chín thương cô ở trong sân,
Mười thương… giữ lại một lần cho tôi.
Nguồn: Tú Mỡ, Giòng nước ngược - Tập I, Trung Bắc Tân Văn, 1934


5. Thề đi
Vì đồng tiền, sinh chuyện kiện thưa,
Thần công lý cũng mù mờ, đứng ngơ.
Giấy vay, giấy nợ chữ mờ,
Kẻ bảo chưa trả, người bô bô rồi!
Thật là lôi thôi đủ nỗi,
Quan tòa hoang mang, chẳng rõ trắng đen.
Bó tay, các ngài đành quen,
Xoay sang thần thánh, kiếm xem ai hiền.
Bắt hai bên đến đền thiêng,
Thề rằng mình thật, Thánh liền phân minh.
Ai ngay, được thánh chứng tình,
Ai gian, bị vật tức thì tại sân.
Nhưng ôi đền Hàng Trống thân,
Mới đây kẻ trộm đã lăn vào rình,
Moi sạch hòm tiền linh thinh,
Thánh nào linh ứng, tội hình đâu ra?
Nói gì chuyện thề cho xa,
Toàn trò lòe bịp người ta cõi trần!
Xưa nay bao kẻ gian chân,
Thề gian sống khoẻ, an thân như thường.
Thần linh, ôi chuyện hoang đường,
Ống trê thề bậy, ai thương mà tin?
Nguồn: Báo Ngày nay, số 89, ngày 12-12-1937


6. Sư cô ở cữ
Chùa Yên Lạc, đất Khoái Châu,
Tên nghe đã thấy chan hòa tình duyên.
Có cô sư trẻ dịu hiền,
Tuổi vừa ba chục, sắc duyên thắm nồng.
Má hồng, tay ngọc mịn bông,
Thướt tha dáng ngọc, tròn trông dung nhan.
Dẫu duyên thắm đượm mơ màng,
Sư cô vẫn giữ đạo vàng thủy chung.
Thế nhưng thu ấy vào trong,
Mọi người chợt thấy sư lòng thẹn thay.
Bụng ôm cái trống phồng đầy,
Đến nơi bệnh viện tìm ngay phòng chờ.
Phật trời Bồ Tát trông nhờ,
Phù trì cô trẻ qua giờ sinh nôi.
Ra đời cậu bé tuyệt vời,
A Di Đà Phật! Mẹ tròn, con xinh.
Xong rồi từ giã thinh lình,
Gửi con cho nước, lên chùa lại tu.
Dốc lòng tu tịnh… hú ru,
Cảnh chùa thanh vắng, chẳng trù cảm thương.
Phật thương nên cứ quen đường,
Năm đôi ba đứa sư nương tiếp đời.
Cứ thế sinh mãi không ngơi,
Phước dày thêm thắm, rạng ngời chùa xưa.
Ngẫm ngày tám tháng tư vừa,
Phật còn đản hạ, thì sư… có gì?


7. Tương tư
Vì ai để dạ mãi tơ vương,
Một mối sầu riêng thắt đoạn trường.
Sáu khắc thao thức hình bóng ngọc,
Năm canh vọng tưởng dáng người thương.
Ruột tằm chín khúc tơ vò rối,
Mộng mị năm canh kéo nhớ trường.
Muốn gửi tâm tình – ai chuyển giúp?
Mòn trông đôi mắt bến sông Tương.


8. Phong cách thơ Tú Mỡ?
Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu) là một thi sĩ độc đáo trong nền thi ca Việt Nam đầu thế kỷ XX. Thơ ông là sự kết hợp tài tình giữa tiếng cười hóm hỉnh và chiều sâu nhân sinh. Những nét đặc trưng nổi bật trong phong cách thơ Tú Mỡ gồm:
- Chất châm biếm dí dỏm: Ông khéo léo dùng giọng hài hước để vạch trần hiện thực, phơi bày thói hư tật xấu của xã hội bằng lối nói nhẹ nhàng nhưng thâm thuý, khiến người đọc bật cười mà ngẫm ngợi.
- Hình ảnh gần gũi, sinh động: Tú Mỡ lựa chọn những hình ảnh đời thường để phóng chiếu góc nhìn mới mẻ, khiến thơ ông vừa gần gũi lại vừa đầy chất sáng tạo.
- Ngôn ngữ mộc mạc mà sâu sắc: Dưới vẻ ngoài giản dị, lời thơ của ông ẩn chứa tư duy ngôn ngữ tinh tế, gợi nhiều tầng ý nghĩa.
- Lạc quan và nhân văn: Trong mọi bối cảnh, ông vẫn giữ một niềm tin vào cái đẹp và lòng thiện, gieo mầm yêu thương qua từng câu chữ.
- Phê phán xã hội bằng nghệ thuật: Ông không né tránh hiện thực, mà chạm đến nó bằng cách riêng, kết hợp sự trào phúng với tấm lòng nhân hậu.
- Đổi mới và tiên phong: Là người mở đường trong việc cách tân thơ trào phúng, ông luôn làm mới hình thức, nội dung để đem lại làn gió tươi mới cho thi đàn.
Những tác phẩm tiêu biểu như “Bảo mẫu”, “Tản mạn”, “Vui” chính là minh chứng rõ nét cho phong cách này – một phong cách đậm đà bản sắc, vừa buồn cười, vừa thấm thía.
9. Thương ông
Ông đau đôi chân
Sưng tấy, tê buốt
Bước đi khập khiễng
Dựa gậy từng hồi.
Lên bậc cửa rồi
Gượng chân khó nhọc
Việt đang nô giỡn
Chạy lại ân cần:
“Ông vịn vai con
Con dìu ông bước.”
Ông lên bậc trước
Rạng rỡ trong lòng
Quẳng gậy thong dong
Quên đau nhức mỏi
Ôm cháu, mừng rỡ:
“Cháu ông ngoan ghê!
Nhỏ mà khoẻ thế
Biết nghĩ thương ông.”
Mắt sáng long lanh
Việt nghiêng đầu nói:
“Ông đau có phải?
Vậy ông nhớ nha
Bố con thường dặn:
- Không đau! Không đau!
Dù đau nhường nào
Sẽ hết liền đấy!”
Dù chân còn tê
Ông cười vang dậy:
“Ừ, ông nghe vậy
“Không đau! Không đau!”
Gật đầu, bật thốt:
“Khỏi rồi! Lạ chưa!”
Việt cười như mưa:
“Cháu đã bảo mà!”
Rồi em thò ra:
“Biếu ông viên kẹo!”
Phần đầu bài thơ từng được đưa vào sách giáo khoa tiểu học nhiều năm liền.
Nguồn: Định Hải, Hương cốm, NXB Kim Đồng, 1975


10. Lệ khóc vợ hiền
Bà Tú ơi! Bà Tú hỡi!
Chẳng lẽ bà đã thật rời xa?
Như một giấc mộng xót xa,
Tỉnh giấc, tìm mãi chẳng ra dáng người.
Không còn dáng bà đi lại,
Sớm chiều qua lại cười vui.
Tuy tuổi đã gần bảy mươi,
Mà hồn vẫn trẻ, bước đời hồn nhiên.
Đằng sau thấp thoáng dáng hiền,
Nghĩ là cô gái đôi miền xuân xanh.
Ấy vậy mà số phận đành
Cướp bà đi mất, buốt lòng chia ly.
Năm mươi năm nghĩa phu thê,
Chung vai hạnh phúc đề huề bên nhau.
Tôi được bà – phúc trời trao,
Hiền lành, đảm đang, sắc màu thủy chung.
Thuở hàn vi, cảnh khốn cùng,
Mà lòng son sắt, chữ “Yêu” dựng nhà.
Trên giường bệnh, tiếng bà tha thiết:
“Ông sẽ khổ nếu tôi đi rồi,
Con cái dẫu có chăm coi,
Cũng không săn sóc bằng tôi ngày nào.”
Bà ơi, hãy nhẹ hồn trao,
An giấc vĩnh viễn giữa bao mênh mông.
Ở nhà, con cháu tận lòng,
Chăm cha phụng dưỡng, thật lòng sớm hôm.
Tôi chỉ khổ lúc chập chờn
Ngủ dậy giữa đêm, bên giường lẻ loi,
Nhớ khi còn có bóng người,
Pha trà, mời nước, tiếng cười vang vang.
Giờ đây chỉ có mình tôi,
Bên bàn thờ lặng, rót đầy chén đau.
Ra sân ngắm cảnh hoa màu,
Cau ai hái nữa? Rầu ai ăn giờ?
Chiếc cơi trầu vẫn còn đó,
Mà trầu cau đã úa màu thời gian.
Người từng cắn chỉ mộng vàng
Giờ ba thước đất lạnh tanh bao trùm.
Tưởng rằng tuổi già yên ấm,
Vợ chồng cùng hưởng tháng năm ngọt ngào,
Nào hay duyên kiếp hư hao,
Bà đi để lại cồn cào trong tôi.
Trời định duyên nợ thế thôi,
Biết bao năm tháng một lời thuỷ chung.
Bà đi trước, tôi sau cùng,
Đành gượng cười, nén sầu trong lặng thinh.
Tôi ở lại, giữ đời mình,
Công danh chút việc còn dang dở đây.
Mai sau việc trọn đủ đầy,
Tôi sẽ theo gió, về ngay với bà…
(19-11-1968)


11. Phở – Món ăn của sự trân trọng
Trong danh sách những món ăn mang đậm phẩm hạnh,
Phở chính là món quà thiêng liêng của đời người.
Chỉ với vài xu nhỏ, mà bạn đã có thể thưởng thức hương vị đầy đủ: ngọt ngào, béo bùi, thơm nồng, bổ dưỡng.
Những miếng bánh cuốn mềm mại, thịt bò tươi ngon, nước dùng đậm đà từ xương, hòa quyện với chút mỡ ngọt ngào.
Ngọn rau thơm, hành tươi cắt nhỏ điểm xuyết lên trên.
Vị nước mắm, tiêu, dấm, ớt tạo nên một tổng thể hoàn hảo.
Khói bốc lên nghi ngút, hương thơm phảng phất bay vào lòng người.
Mỗi muỗng phở như thấm sâu vào từng tế bào, làm dậy lên sự thèm thuồng, cơn đói như bừng tỉnh.
Dù có những món ăn đắt đỏ, quý giá thế nào,
Nhưng đôi khi, một tô phở lại đủ làm bạn cảm thấy lòng ấm áp và trọn vẹn.
Không phân biệt sang hèn, từ người giàu đến người nghèo,
Phở đều là món ăn của mọi người, ai cũng yêu thích.
Những bậc thầy văn chương, khi đêm khuya thức thâu canh,
Cũng cần một bát phở để vơi đi nỗi lo toan.
Với những nghệ sĩ, những người yêu đời,
Phở là nguồn cơn của những phút giây thư giãn, tạm quên đi mệt nhọc.
Phở không chỉ là món ăn, mà còn là ân tình, là dưỡng chất bổ trợ cho sức khoẻ,
Có thể bổ sung cho cơ thể những gì mà thuốc không thể mang lại.
Quế, phụ sâm, nhung... có thể sánh với phở,
Nhưng không thể sánh bằng tình yêu mà phở mang lại.
Phở bổ âm dương, phế, thận, can, tì,
Đem lại sự khỏe khoắn cho cả thân thể, lẫn tinh thần.
Các anh em lao động, dù vất vả hay khó khăn,
Vẫn coi phở như một phần của sức mạnh tinh thần, để giữ vững tinh thần.
Những bậc vương tôn, dù có cao lương mỹ vị,
Nhưng một bát phở vẫn không thể thiếu trong bữa ăn của họ.
Đừng coi phở là món ăn hèn mọn,
Vì đến những nơi như Ba-Lê, người ta cũng đón nhận phở như một phần trong nền ẩm thực thế giới.
Phở – món ăn ngon, lại dễ dàng, vừa vặn với túi tiền,
Vì thế, đừng ngại gì mà không thử ngay hôm nay.
Ai ơi, thử một lần, đừng bỏ lỡ.
Nguồn: Việt Nam thi nhân tiền chiến, Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng, Xuân Thu tái bản, 2000


Có thể bạn quan tâm

Khám phá ngay công thức làm bánh bông lan mềm mịn, thơm ngon từ bột gạo chuẩn vị

14 cách trị quầng thâm mắt hiệu quả, đơn giản và tiết kiệm bạn nên thử

22 Công thức dưỡng da trắng sáng tự nhiên bạn không nên bỏ lỡ

Top 7 địa chỉ bán phụ kiện nail uy tín và chất lượng tại TP. Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk

Khám Phá 6 Quán Bò Nướng Sốt Trứng Muối Ngon Nhất Tại Vũng Tàu
