Top 15 bài văn nghị luận xuất sắc nhất về bài thơ "Tràng giang" của nhà thơ Huy Cận (Ngữ văn 11 - SGK Kết nối tri thức)
Nội dung bài viết
1. Mẫu bài văn nghị luận về bài thơ "Tràng giang" của Huy Cận - bản mẫu số 4
Huy Cận được xem là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ Mới, với phong cách sáng tác độc đáo, đậm chất triết lí và sâu sắc về xã hội. Thơ ông luôn ẩn chứa một nỗi buồn man mác, bâng khuâng như “đêm mưa”, như “người lữ thứ” lang thang, nỗi buồn của “quán chật đèo cao”, “trời rộng sông dài”. Bài thơ "Tràng Giang" - sáng tác năm 1939 và xuất bản lần đầu trên báo Ngày Nay, sau đó được in trong tập thơ Lửa Thiêng, là một kiệt tác tiêu biểu cho cảm xúc ấy.
Bài thơ mang đậm phong vị của thơ Đường, lấy cảm hứng từ cảnh sông nước mênh mang của sông Hồng. Huy Cận từng chia sẻ: "Tôi thường thích chiều chủ nhật đi ngắm cảnh sông Hồng và Hồ Tây. Cảnh sắc ấy khiến tôi dạt dào cảm xúc. Nhưng bài thơ không chỉ gợi cảm từ sông Hồng mà còn là tiếng lòng chung của những dòng sông quê hương".
Khổ đề từ mở đầu bằng câu "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" đã như thay lời cho toàn bộ tâm trạng bâng khuâng, trống trải khi đứng giữa không gian bao la, mênh mông, khó bày tỏ cùng ai. Bài thơ hiện lên với vẻ đẹp vừa mang hơi thở hiện đại, vừa đượm nét cổ điển, một dấu ấn đặc trưng trong sáng tác của Huy Cận.
Khởi đầu bài thơ là hình ảnh sông nước bao la, khổ thơ đầu khiến người đọc liên tưởng đến dòng sông thăm thẳm chứa đựng nỗi buồn dạt dào:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Vẻ đẹp cổ điển hiện rõ ngay bốn câu đầu với những từ ngữ gợi cảm nỗi buồn man mác như "buồn", "sầu trăm ngả", "lạc mấy dòng" kết hợp với biện pháp tu từ láy "điệp điệp", "song song", thể hiện sâu sắc tâm trạng nhà thơ như thấm đẫm phong cách thơ Đường.
Trên dòng sông ấy, con thuyền xuôi mái lững lờ trôi, trong trạng thái tĩnh lặng nhưng vẫn toát lên vẻ mênh mông, rộng lớn của thiên nhiên, khiến lòng người càng thêm sâu sắc nỗi buồn vô tận. Hình ảnh "thuyền" và "nước" vốn gắn bó nhưng lại được Huy Cận tách biệt trong câu "thuyền về nước lại", gợi lên cảm giác xa cách, xót xa, tạo nên "sầu trăm ngả" – nỗi buồn dài vô tận không hồi kết.
Câu kết khổ thơ với "củi một cành khô lạc mấy dòng" sử dụng phép đảo ngữ và từ ngữ chọn lọc để diễn tả sự cô đơn, lạc lõng giữa cảnh sắc bao la. "Một" nhấn mạnh sự đơn độc, "cành khô" biểu tượng cho sự héo úa, cạn kiệt sức sống, còn "lạc" mang ý nghĩa trôi dạt vô định trên "mấy dòng" nước, biểu hiện sự hư vô, bơ vơ.
Hình ảnh cành củi khô trôi vô định khiến người đọc cảm nhận được sự trống trải, cô đơn, phản ánh kiếp người lận đận, trôi nổi giữa cuộc đời nhiều thử thách.
Khổ thơ thứ hai nâng cao nỗi cô liêu, với cảnh vật và không gian càng trở nên đìu hiu:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Hai câu đầu phác họa khung cảnh làng quê hoang vắng, yên ắng, tiếng gió thổi “đìu hiu” khiến cảnh vật thêm phần lạnh lẽo. Từ "đâu" trong câu hỏi biểu hiện sự hoang mang, trống vắng, không tìm thấy điểm tựa. Cảnh bến sông dài, trời rộng không bóng người hiện lên cô liêu, tiêu điều.
Tác giả dùng "sâu" thay vì "cao" để nói về bầu trời, cho thấy chiều sâu thăm thẳm của không gian và cảm xúc. Câu cuối như là lời kết cho tâm trạng cô đơn sâu sắc không nơi bày tỏ.
Khổ thơ thứ ba thể hiện sự vận động nhẹ nhàng của thiên nhiên, song vẫn chất chứa nỗi buồn man mác:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
“Bèo” trôi dạt vô định, không bến bờ, “hàng nối hàng” nhấn mạnh sự tiếp nối không dứt, gợi cảm giác lạc lõng. Không có chuyến đò ngang như thiếu vắng sự sống, niềm thân quen. Bờ xanh nối tiếp bãi vàng trong lặng lẽ, tĩnh mịch.
Khổ cuối là điểm nhấn cảm xúc với những hình ảnh giàu tính biểu tượng:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
“Mây cao đùn núi bạc” mang dáng vẻ hùng vĩ mà cô đơn; “chim nghiêng cánh nhỏ” hiện lên nhỏ bé giữa không gian bao la, tượng trưng cho tâm hồn đơn độc của nhà thơ. Hai câu cuối bộc lộ nỗi nhớ quê da diết, dù không có yếu tố ngoại cảnh tác động “khói hoàng hôn”, nỗi nhớ vẫn dâng trào, sâu sắc không nguôi.
Bài thơ "Tràng Giang" là một tác phẩm xuất sắc trong sự nghiệp thơ ca của Huy Cận, kết tinh vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại. Sự hòa quyện giữa bút pháp hiện thực và cổ điển đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên u buồn, hiu quạnh, đồng thời khắc họa tâm trạng cô đơn, trống trải và tình yêu quê hương tha thiết, sâu nặng của nhà thơ, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc.

2. Mẫu bài văn nghị luận về bài thơ "Tràng Giang" của nhà thơ Huy Cận - số 5
Phong trào Thơ Mới ghi dấu nhiều tên tuổi thi sĩ xuất sắc, trong đó Huy Cận nổi bật với hình ảnh một hồn thơ "sầu vạn cổ". Mỗi câu thơ của ông đều thấm đẫm nỗi buồn sâu lắng, chất chứa tâm tư trước những đổi thay của thời cuộc và xã hội. Đằng sau nỗi buồn ấy là tiếng lòng yêu nước da diết. Bài thơ "Tràng giang" chính là hiện thân cho tâm hồn ấy.
Mở đầu bằng lời đề từ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" chỉ với bảy chữ nhưng đã bao quát trọn vẹn nội dung và ý tưởng nghệ thuật của tác phẩm. Từ láy "bâng khuâng" khơi gợi tâm trạng trăn trở, thương nhớ và nỗi niềm man mác của thi nhân trước không gian bao la, mênh mông. Câu thơ là mở đầu nhẹ nhàng cho những cảm xúc được giãi bày trong những câu tiếp theo:
"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng."
Từ nhan đề "tràng giang" được lặp lại tinh tế, kết hợp điệp vần "ang" tạo nên không gian sông dài, rộng lớn, vang vọng âm hưởng nỗi buồn sâu nặng. Sóng sông nhẹ nhàng nhưng mang màu sắc tâm trạng "buồn điệp điệp" – nỗi buồn chồng chất, nối tiếp vô tận. Hình ảnh con thuyền đơn lẻ, trôi theo mái nước song song gợi lên sự lênh đênh, bơ vơ như tâm hồn thi sĩ giữa cuộc đời.
Hình ảnh đối lập "thuyền về - nước lại" và phép đảo ngữ trong "củi một cành khô" nhấn mạnh sự cô đơn, trôi nổi không nơi bấu víu, như hình ảnh ẩn dụ cho thân phận con người giữa dòng đời xuôi ngược.
Khổ thơ thứ hai tiếp tục mở rộng nỗi buồn bằng hình ảnh thiên nhiên hoang vắng:
"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa, vãn chợ chiều"
Những từ láy "lơ thơ", "đìu hiu" gợi lên không khí tĩnh lặng, cô quạnh, khiến cả cảnh vật như ngưng đọng, vắng bóng hơi ấm cuộc sống. Không gian rộng lớn được mở rộng thêm trong câu tiếp theo:
"Nắng xuống trời lên, sâu chót vót
Sông dài trời rộng, bến cô liêu"
Phép đối kết và nhân hóa tạo nên chiều sâu vô tận, hun hút của bầu trời và dòng sông, làm nổi bật sự trống trải và cô đơn tột cùng của cảnh vật và tâm trạng.
Khổ thơ thứ ba khắc họa nỗi cô đơn cùng cực qua hình ảnh cánh bèo:
"Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cần gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng."
Hình ảnh bèo trôi vô định, không có điểm tựa, cùng sự vắng bóng chuyến đò và cây cầu, làm tăng thêm cảm giác cô lập, xa cách và mất phương hướng trong lòng người.
Khổ cuối khắc họa bức tranh thiên nhiên vừa tráng lệ vừa thấm đẫm nỗi buồn:
"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa
Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."
Mây trắng xếp lớp như núi bạc tráng lệ, cánh chim nhỏ nghiêng mình giữa bóng chiều cô liêu tạo nên sự tương phản mạnh mẽ, tô đậm nỗi buồn sâu thẳm. Nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương trào dâng trong lòng thi nhân dù không có yếu tố ngoại cảnh nào gợi lên, thể hiện tình cảm yêu nước và quê hương tha thiết, bền bỉ.
Bài thơ "Tràng giang" hòa quyện giữa nét cổ điển và hiện đại, đậm chất Đường thi nhưng mang đậm dấu ấn Việt Nam qua những hình ảnh gần gũi như con thuyền xuôi mái, bèo dạt mây trôi, cành củi khô lạc dòng. Qua đó, ta cảm nhận được nỗi buồn vô tận của cái tôi cô đơn, lạc lõng giữa cuộc đời.

3. Bài văn nghị luận về bài thơ "Tràng Giang" của thi sĩ Huy Cận - mẫu số 6
Huy Cận là một trong những thi sĩ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang trong mình hồn thơ đầy nỗi buồn man mác và sâu lắng. Mỗi vần thơ của ông như thấm đẫm những khoảng lặng thiên nhiên rộng lớn, cô đơn, khắc khoải trước những biến động của thời đại. Bài thơ "Tràng Giang", được in trong tập "Lửa Thiêng", chính là hiện thân rõ nét nhất cho tâm hồn ấy.
Ngay từ nhan đề và câu đề từ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài", tác phẩm đã mở ra không gian bao la của thiên nhiên và nỗi niềm da diết, bâng khuâng không nguôi. Chữ "tràng giang" không chỉ mang nghĩa sông dài theo tiếng Hán Việt mà còn gợi nên âm vang ngân dài, trải rộng như dòng sông mênh mang, vời vợi trước mắt người đọc.
Khổ thơ mở đầu với hình ảnh sóng nước gợn lăn tăn, nối tiếp nhau như những nỗi buồn điệp trùng:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”
Dòng sông dường như vô tận, với từng đợt sóng nối tiếp không dứt, làm bức tranh thiên nhiên thêm rộng lớn, mênh mông. Giữa không gian ấy, con thuyền nhỏ bé trôi theo mái nước, tượng trưng cho thân phận cô đơn, lẻ loi của con người trước đời rộng lớn.
Đặc biệt, hai câu cuối khổ thơ mở đầu để lại ấn tượng sâu sắc về sự chia lìa và nỗi sầu muôn ngả:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Hình ảnh thuyền và nước vốn gắn bó, nay lại như bị ngăn cách, chia lìa, gợi lên sự ngậm ngùi, bơ vơ của kiếp người. Cành củi khô trôi dạt giữa dòng sông mênh mông càng làm nổi bật sự đơn độc, lạc lõng, không nơi nương tựa.
Khổ thơ thứ hai mở rộng không gian sang cồn nhỏ vắng vẻ, hoang lạnh:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.”
Không gian càng thêm lạnh lẽo với những âm thanh vắng bóng, chỉ còn tiếng gió và bóng chiều cô liêu. Câu thơ "đâu tiếng làng xa" vừa có thể là phủ định, vừa là ẩn dụ cho sự thiếu vắng sức sống của làng quê, tạo nên nỗi buồn man mác sâu thẳm.
Hai câu cuối khổ thơ khắc họa chiều sâu không gian bằng cách dùng chữ "sâu chót vót", vừa mô tả cảnh vật vừa diễn tả tâm trạng cô đơn tột cùng của thi nhân:
“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”
Khổ thơ thứ ba quay trở lại với không gian sông nước nhưng lại thêm phần vắng lặng, trống trải:
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Hình ảnh bèo trôi vô định, nối tiếp nhau như những cuộc đời nhỏ bé, bơ vơ không chốn về. Sự thiếu vắng thuyền, cầu – những biểu tượng của kết nối – làm tăng thêm cảm giác cô đơn, ngăn cách, thiếu vắng tình người.
Khổ thơ cuối vẽ nên bức tranh thiên nhiên chiều tà huy hoàng mà lại thấm đượm nỗi nhớ quê hương:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa
Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Mây trắng chồng chất như những dãy núi bạc dưới ánh chiều tà, cánh chim nhỏ đơn độc nghiêng mình dưới bầu trời bao la càng làm nổi bật sự bé nhỏ, cô đơn của con người giữa thiên nhiên hùng vĩ. Nỗi nhớ nhà thấm sâu trong lòng thi sĩ, dâng trào không nguôi, dù không có bóng khói hoàng hôn làm nền cho cảnh vật.
“Tràng giang” là một tác phẩm kết tinh vẻ đẹp cổ điển hòa quyện cùng hơi thở hiện đại, không chỉ miêu tả thiên nhiên bao la mà còn gợi lên tâm trạng cô đơn, lạc lõng và tình yêu tha thiết với quê hương của thi nhân. Qua đó, bài thơ để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc về một thời đại và một tâm hồn thi sĩ đặc biệt.

4. Bài phân tích bài thơ Tràng Giang của thi sĩ Huy Cận - Mẫu số 7
Khác với tâm hồn sục sôi, nhiệt huyết của thời kỳ đổi mới sau Cách mạng tháng Tám, thơ Huy Cận giai đoạn trước cách mạng đượm màu u sầu, trầm mặc trước vận mệnh thời cuộc. Bài thơ “Tràng giang” ra đời chính là bức tranh vẽ nên nỗi cô đơn của cá nhân nhỏ bé trước bức màn thiên nhiên bao la, rộng lớn. Cùng với nỗi niềm man mác, bài thơ còn là tiếng lòng da diết nhớ thương quê hương, đất nước đang chìm trong bi thương của thi sĩ.
Ra đời năm 1939, lần đầu in trên báo “Ngày nay” và sau đó được đưa vào tập thơ “Lửa thiêng” – tác phẩm mở đầu sự nghiệp thơ ca của Huy Cận, “Tràng giang” khẳng định vị trí quan trọng của ông trong phong trào “Thơ mới” giai đoạn đầu. Tựa đề bài thơ như một khung cảnh sông dài mênh mông, bao la, nhưng sâu xa hơn là hình ảnh cuộc đời bấp bênh, trôi nổi và nỗi buồn day dứt. Câu đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đã khắc họa rõ nét tâm trạng bâng khuâng, nỗi niềm khó tỏ của nhân vật trữ tình trước sự bao la của thiên nhiên.
Mở đầu khổ thơ, hình ảnh dòng sông buồn được khắc họa sống động qua những vần thơ chứa đựng cảm xúc sâu lắng:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Ngay từ những câu đầu, không khí u uất, nặng nề hiện lên qua các từ ngữ “buồn”, “sầu”, “lạc cành khô”. Hình ảnh sóng gợn lăn tăn mở rộng không gian sông nước rộng lớn, trong khi con thuyền nhỏ bé trôi xuôi trong dòng nước mênh mông tạo nên cảm giác cô đơn, trơ trọi. Hai câu cuối khắc họa sự chia ly, xa cách khi “thuyền” và “nước” vốn dĩ gắn bó nay lại rời rạc, và hình ảnh “củi một cành khô” nổi bật sự cô độc, lạc lõng giữa dòng đời.
Nghệ thuật đối lập và nhịp điệu ngắt nhịp khéo léo càng làm nổi bật cảnh vật trống trải, tâm trạng cô đơn của thi sĩ – một con người tài hoa giữa những bấp bênh của cuộc sống. Khổ thơ thứ hai mở rộng bức tranh thiên nhiên với không gian hoang vắng, tĩnh mịch:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Hai từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” vang lên như tiếng vọng của sự trống trải, hiu quạnh của cảnh vật. Hình ảnh “cồn nhỏ” vắng lặng cùng làn gió man mác buồn tạo nên không gian tĩnh mịch đầy ám ảnh. Tiếng vọng yếu ớt của làng quê dường như cũng bị cuốn trôi trong nỗi cô đơn mênh mông. Biện pháp đảo ngữ, sử dụng từ ngữ đặc sắc tạo nên không gian sâu thẳm, mở rộng theo chiều cao và chiều sâu, thể hiện tâm trạng cô đơn vô tận của thi sĩ.
Khổ thơ thứ ba thể hiện sự trôi nổi, bấp bênh của cuộc đời qua hình ảnh bèo dạt và sự vắng bóng của con người:
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bài vàng.
Động từ “dạt” cùng hình ảnh “bèo” gợi lên sự trôi nổi, bấp bênh, vô định. Việc lặp lại từ phủ định “không” nhấn mạnh sự thiếu vắng, xa cách của con người và sự kết nối xã hội. Cảnh vật đẹp đẽ với “bờ xanh” và “bãi vàng” nhuốm màu cô đơn, tĩnh lặng, như gánh nặng của sự đơn độc bao trùm.
Khổ thơ cuối cùng chứa đựng tình cảm tha thiết của thi sĩ dành cho quê hương:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiểu sa.
Lòng quê dờn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Những lớp mây trắng xếp chồng như những ngọn núi bạc trải dài, kết hợp với hình ảnh cánh chim nhỏ nghiêng mình tạo nên sự đối lập giữa cái rộng lớn và nhỏ bé, giữa hùng vĩ và cô đơn. Nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương dâng trào qua từng nhịp thơ mềm mại, tinh tế. Câu thơ kết thúc thể hiện nỗi nhớ thương da diết, dù không có khói hoàng hôn, nỗi nhớ vẫn vẹn nguyên trong lòng thi sĩ.
“Tràng giang” là tác phẩm kết tinh sự hòa quyện giữa phong cách cổ điển và hiện đại, thể hiện cái tôi giàu cảm xúc và tài năng nghệ thuật của Huy Cận. Qua đó, bài thơ không chỉ là bức tranh thiên nhiên rộng lớn mà còn là tiếng lòng cô đơn, trăn trở và tình yêu tha thiết đối với quê hương, đất nước.

5. Bài văn nghị luận về bài thơ Tràng Giang của nhà thơ Huy Cận - mẫu 8
Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới, với tư duy sâu sắc và tình cảm thắm thiết giao hòa giữa con người và vũ trụ. Bài thơ Tràng Giang chính là tác phẩm tiêu biểu, thể hiện trọn vẹn phong cách và tư tưởng độc đáo của ông.
Ngay lời đề từ, nhà thơ đã khắc họa sâu sắc nỗi buồn của thiên nhiên và tâm trạng riêng tư của người thi sĩ, bao trọn cả cảnh vật lẫn cảm xúc trong một câu ngắn gọn mà đậm đà.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Trước cảnh sông nước rộng lớn, nỗi buồn trong lòng tác giả như được nhân lên gấp bội. Khổ thơ mở đầu sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, đem lại cảm xúc sâu lắng, cho thấy tâm trạng cô đơn, bâng khuâng của thi nhân trước dòng đời trôi nổi. Hình ảnh “sóng gợn” gợi liên tưởng tới những đợt sóng lan tỏa vô tận, tượng trưng cho nỗi buồn âm thầm mà dâng trào không nguôi.
Con thuyền nhỏ bập bềnh giữa dòng sông rộng lớn càng làm nổi bật nỗi cô đơn sâu sắc của tác giả. Các hình ảnh đời thường được nhà thơ vận dụng sáng tạo, tạo nên phong cách thơ vừa giản dị lại vừa độc đáo.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Tiếp tục qua những hình ảnh “cồn”, “gió”, “làng”, “chợ”, “bến”, tác giả gửi gắm tâm sự của mình vào cảnh vật trống trải, thưa thớt, vắng lặng. Âm thanh mơ hồ của làng quê xa xôi vang lên không rõ ràng, như lời nhắc nhở về sự im ắng, cô đơn bao trùm khắp nơi. Đặc biệt, nghệ thuật đối ý giữa “nắng xuống” và “trời lên” khắc họa chiều sâu không gian và thời gian, đồng thời biểu thị nỗi buồn ngút ngàn, không bến bờ.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bài vàng.
Hình ảnh bèo trôi dạt gợi lên số phận bấp bênh, vô định của con người. Sự vắng mặt của chuyến đò và cây cầu như biểu tượng cho sự xa cách, ngăn cách, khiến nỗi cô đơn càng thêm sâu sắc. Cảnh vật yên tĩnh, lặng lẽ được tô điểm bằng sắc màu “bờ xanh” và “bãi vàng” càng làm nổi bật sự tĩnh mịch, cô đơn giữa thiên nhiên.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiểu sa
Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Nhìn lên bầu trời, thi sĩ thấy những đám mây chồng chất như núi bạc, rực rỡ nhưng ẩn chứa nỗi buồn sâu thẳm. Hình ảnh cánh chim nhỏ nghiêng cánh trong ánh chiều tà như biểu tượng cho sự bơ vơ, nhỏ bé trước thiên nhiên bao la. Nỗi nhớ quê hương, tình cảm dào dạt được thể hiện qua nhịp thơ mượt mà, đặc biệt là câu kết gợi lên sự da diết của lòng người dù không có hình ảnh khói hoàng hôn nhưng nỗi nhớ vẫn mãnh liệt.
Bài thơ Tràng Giang đã khắc họa nỗi nhớ nhà tha thiết của tác giả, phản ánh tâm trạng bâng khuâng, xúc động trước cảnh thiên nhiên rộng lớn. Qua cách tiếp cận gần gũi với cuộc sống, tác phẩm trở thành một kiệt tác tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại.

6. Bài văn phân tích bài thơ Tràng Giang của nhà thơ Huy Cận - mẫu số 9
Trong tác phẩm “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh đã khắc họa chân dung các nhà thơ phong trào Thơ Mới một cách sinh động: “Thế Lữ với tâm hồn rộng mở, Lưu Trọng Lư mơ màng, Huy Thông hùng tráng, Nguyễn Nhược Pháp trong sáng, Huy Cận ảo não, Nguyễn Bính quê mùa, Chế Lan Viên kỳ dị, Xuân Diệu tha thiết, rạo rực và băn khoăn”.
Mỗi thi sĩ khoác lên mình những sắc thái riêng biệt, thể hiện cái tôi độc đáo qua từng vần thơ. Trong số đó, Huy Cận nổi bật với tâm trạng ảo não, nặng trĩu nỗi buồn sâu sắc, đặc biệt thể hiện rõ nét trong bài thơ “Tràng Giang”. Mở đầu bài thơ là bức tranh sông nước mênh mông, vừa hiện thực vừa trữ tình:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Hình ảnh “tràng giang” rộng lớn với những con sóng nhỏ nối tiếp không ngừng gợi lên âm thanh dịu dàng, khẽ khàng của dòng sông đang lặng lẽ trôi. Sóng nước hòa quyện cùng sóng lòng thi nhân, nỗi buồn thăm thẳm được hữu hình hóa qua cảnh vật. Con thuyền và dòng nước, vốn gắn bó nhưng ở đây lại rẽ ngược, tượng trưng cho sự chia lìa, bơ vơ. Con thuyền nhỏ bé trôi dạt giữa mênh mông sông nước, mang theo muôn nỗi sầu lòng của thi sĩ. Chi tiết “cành củi khô” được đưa vào như nét chấm phá mộc mạc của cuộc sống đời thường, càng làm nổi bật sự cô đơn, tàn tạ và thân phận lạc loài của con người giữa cõi đời hỗn độn.
Khổ thơ thứ hai tiếp tục mở rộng bức tranh thiên nhiên với những chi tiết mới mẻ:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Dẫu cảnh vật có thêm sự sống với chợ chiều, nhưng lại càng làm nổi bật sự thưa thớt, đìu hiu và nỗi buồn man mác, thê lương. Nhà thơ khéo léo sử dụng biện pháp nghệ thuật lấy động tả tĩnh, khiến không gian hiện lên vừa vắng lặng vừa mênh mông, bát ngát. Câu thơ “sâu chót vót” không chỉ là hình ảnh mà còn là cảm nhận sâu sắc về chiều cao và chiều sâu không gian, gợi lên cảm giác cô đơn và nhỏ bé của con người trước thiên nhiên rộng lớn.
Hình ảnh bèo trôi dạt, hàng nối hàng không ngừng di chuyển, càng biểu thị thân phận nổi trôi, lạc lõng của con người trong đời sống. Câu thơ:
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bài vàng
khắc họa niềm khao khát giao cảm, kết nối giữa con người với con người và với thiên nhiên, nhưng lại là sự tuyệt vọng, cách biệt, cô độc trong không gian rộng lớn. Dòng sông, bờ xanh, bãi vàng dù tươi đẹp vẫn không thể xóa tan cái giá lạnh trong tâm hồn thi sĩ.
Khổ cuối cùng mở ra bức tranh thiên nhiên tráng lệ, đồng thời chứa đựng nỗi niềm sâu kín của nhà thơ:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiểu sa
Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Hình ảnh lớp mây chồng chất, ngọn núi bạc lấp lánh dưới ánh hoàng hôn cùng cánh chim nhỏ bé nghiêng mình tạo nên một bức tranh thiên nhiên vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng nhưng cũng đầy cô đơn, bơ vơ. Tâm trạng nhà thơ được thể hiện qua từ láy “dờn dợn”, vừa gợi hình vừa biểu cảm, như những con sóng lòng lan tỏa mãnh liệt, nỗi nhớ quê nhà dâng trào da diết. Câu thơ cuối, lấy cảm hứng từ hai câu thơ của Thôi Hiệu, như một khúc ca nức nở khắc sâu nỗi lòng người tha hương nhưng ở đây là nỗi niềm của một người đang đứng trên quê hương mình mà vẫn cảm thấy cô đơn, lạc lõng trước thời cuộc biến động.
“Tràng Giang” là dấu ấn đặc sắc của Huy Cận trong phong trào Thơ Mới, vừa là bức tranh thiên nhiên kỳ vĩ, vừa là tiếng lòng của một thế hệ thanh niên đầy tâm sự, khát vọng và những nỗi buồn thế hệ thấm đẫm trong từng vần thơ.

7. Bài văn phân tích bài thơ Tràng Giang của nhà thơ Huy Cận - mẫu 10
Khổ thứ hai của bài thơ Tràng Giang mở ra một khung cảnh hoang vu, xác xơ, đầy cảm giác tiều tụy:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều,
Nắng xuống trời lên sâu chót vót,
Sông dài trời rộng bến cô liêu.
Hình ảnh những cồn cát nhỏ lẻ loi giữa dòng nước, được điểm xuyết bằng vài cây cỏ hoang sơ, gợi nên sự trống trải và cô đơn đến tê tái. Cảnh làng xóm ven sông vắng lặng, tiếng chợ chiều như vọng lại mờ nhạt, gợi cảm giác thời gian ngưng đọng và cuộc sống như bị bao phủ bởi nỗi buồn sâu sắc. Cảnh tượng thực lại đan xen ý nghĩa biểu tượng về thân phận con người nhỏ bé, mỏng manh trước dòng đời cuốn trôi, như những cồn cát bị nhấn chìm dần theo dòng nước. Cái gió đìu hiu len lỏi khắp nơi, thấm đẫm cảm giác hoang tàn, lạnh lẽo.
Huy Cận đã thừa hưởng và sáng tạo từ bút pháp của Chinh Phụ Ngâm khi viết:
“Non Kì quạnh quẽ trăng treo,
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.”
Câu thơ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” vừa là âm vang của cuộc sống, vừa phản chiếu sự tĩnh lặng và hoang vắng của không gian, khiến nỗi cô đơn trở nên sâu sắc và chạm đến tâm hồn người đọc.
Nắng xuống trời lên sâu chót vót,
Sông dài trời rộng bến cô liêu.
Hai câu thơ gợi mở không gian đa chiều, với chiều cao của bầu trời và chiều sâu của dòng sông, tạo nên một cảm giác rộng lớn, mênh mông và sâu thẳm. Sự tương phản giữa “nắng xuống” và “trời lên” tạo nên hình ảnh độc đáo, như sự vận động liên tục của vũ trụ, đồng thời làm nổi bật sự cô đơn và lạnh lẽo của bến sông vắng vẻ.
Huy Cận đã khéo léo thể hiện nỗi buồn không chỉ trong lòng người mà còn lan tỏa ra cả không gian thiên nhiên bao la, khiến nỗi cô đơn ấy trở nên vũ trụ và bất tận. Sự tương phản giữa bến cô liêu và dòng sông dài rộng gợi ra cảm giác con người nhỏ bé trước vũ trụ bao la, đồng thời là sự thấm thía về thân phận lạc lõng giữa cuộc đời đầy biến động.
Khổ thơ kết lại bằng một cảnh tượng đầy tâm trạng, vừa vắng vẻ vừa sâu lắng, để lại dấu ấn đậm nét trong lòng người đọc về nỗi niềm sâu sắc và bức tranh thiên nhiên mênh mang của Huy Cận.

8. Bài phân tích sâu sắc về bài thơ Tràng Giang của thi sĩ Huy Cận - mẫu 11
Cù Huy Cận (1919-2005), với bút danh Huy Cận, là một trong những tiếng thơ vang dội nhất của phong trào thơ Mới, đồng thời là nhà thơ có đóng góp quan trọng cho nền văn học Việt Nam qua nhiều giai đoạn lịch sử. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ ông mang đậm nét sầu bi da diết, lan tỏa khắp trời đất, khiến người ta ví von rằng tâm hồn ông ngập tràn nỗi buồn ngay từ trong bào thai. Bài thơ "Tràng Giang" là tác phẩm tiêu biểu, nổi bật nhất của phong trào thơ Mới, đồng thời khắc họa sâu sắc phong cách sáng tác đặc trưng của Huy Cận thời kỳ này. Bài thơ kết hợp hài hòa giữa màu sắc cổ điển của thơ Đường và nét hiện đại, lãng mạn của thơ Pháp, qua đó bộc lộ sâu thẳm nỗi cô đơn, lạc lõng của con người trước dòng chảy thế sự, phản ánh tâm trạng bế tắc của tác giả trước vận mệnh đau thương của đất nước.
Nhân đề "Tràng giang" gợi mở không gian rộng lớn qua âm vang điệp vần "ang", tạo cảm giác dài rộng, vang vọng trong không gian mênh mông, đồng thời mang sắc thái cổ kính, trầm lắng, chất chứa nhiều tâm tư và nỗi niềm sâu kín. Lời đề tựa "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" khơi dậy cảm xúc chủ đạo trong bài thơ: nỗi bâng khuâng, hoài niệm và nỗi buồn dày đặc khi con người đứng trước thiên nhiên bao la, cảm nhận mình như hạt cát bé nhỏ, lạc lõng, chơ vơ giữa trời đất rộng lớn. Tâm trạng ấy phản chiếu nỗi đau của đất nước lúc bấy giờ, khi một trí thức tiểu tư sản như Huy Cận cũng cảm thấy bế tắc, cô đơn trước dòng đời biến động. Điều này tương phản với câu ca xưa "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ" – thiên nhiên vốn là chốn tìm sự đồng điệu thì với Huy Cận lại là tấm gương phản chiếu nỗi niềm sâu kín của con người.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Mở đầu bài thơ là bức tranh sông nước mênh mang nhưng vắng lặng, buồn bã với vẻ đẹp cổ điển hiện rõ. "Tràng giang" – dòng sông dài rộng tưởng vô tận – lại lặng sóng, chỉ gợn nhẹ từng lớp sóng nhỏ, tạo cảm giác phẳng lặng, hiu hắt như "dòng nước buồn thiu" của Hàn Mặc Tử. Nỗi buồn được nhân lên qua từ láy "buồn điệp điệp", là lớp buồn chồng lên lớp buồn, thấm đẫm và sâu sắc. Hình ảnh "con thuyền xuôi mái nước song song" và "thuyền về nước lại sầu trăm ngả" khắc họa nỗi cô đơn, chia ly giữa con người và thiên nhiên, nơi vốn hòa hợp song song mà nay dường như rạn nứt, xa cách. Mỗi con thuyền như mang theo nỗi sầu mênh mông, dập dềnh khắp ngả đường đời. Câu thơ cuối khổ gợi lên thân phận cô đơn của tác giả – "củi một cành khô" trôi dạt giữa mênh mông sóng nước, như chính nỗi lòng hoang mang, bất lực trước dòng đời bấp bênh, không biết tương lai sẽ ra sao. Sự kết hợp tinh tế giữa nét hiện đại – sự biểu đạt cái tôi, nỗi buồn cá nhân – với vẻ đẹp cổ điển qua các từ láy và điển tích Hán Việt, tạo nên sức ám ảnh khó phai cho bức tranh thiên nhiên và tâm hồn.
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”
Khổ thơ thứ hai thu hẹp không gian, thay bằng cảnh vật hoang vắng, cô liêu và tâm trạng ngày càng nặng nề. Các từ láy "lơ thơ", "đìu hiu", "chót vót" khắc họa sự thưa thớt, hoang vắng, tiếng gió chiều mỏng manh thổi qua tạo cảm giác tịch mịch vô cùng. Tiếng "làng xa vãn chợ chiều" là tiếng vọng hiếm hoi của sự sống, nhưng cũng chỉ làm nổi bật sự cô đơn tuyệt đối của cảnh vật và lòng người. Huy Cận đã tài tình sử dụng những hình ảnh, âm thanh để vẽ nên một bức tranh vừa thực vừa ẩn dụ cho tâm trạng cô đơn, quạnh quẽ tận cùng.
Câu "Nắng xuống trời lên sâu chót vót" diễn tả không gian có chiều sâu và chiều cao, tạo cảm giác vừa hắt hiu vừa hun hút, bầu trời như được kéo lên cao vời vợi trong ánh nắng chiều tàn, đồng thời thể hiện sự nhỏ bé, cô đơn của con người giữa vũ trụ bao la. "Sông dài trời rộng bến cô liêu" vừa là hình ảnh thực vừa là biểu tượng cho nỗi cô đơn, bơ vơ, nỗi buồn không lối thoát bao trùm khắp không gian và tâm hồn.
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Khổ thơ thứ ba hiện lên hình ảnh bèo trôi lặng lẽ, vô định, tượng trưng cho thân phận con người nổi trôi, không phương hướng. "Hàng nối hàng" gợi lên số đông những số phận cùng cảnh ngộ – lớp lớp những người có tâm huyết, yêu nước nhưng bị đẩy vào thế bế tắc, không tìm được lối thoát. Câu "Mênh mông không một chuyến đò ngang" như tiếng than khóc cho sự vắng bóng của những người dẫn dắt, những ánh sáng dẫn lối trong cảnh đêm tối của dân tộc. "Không cầu gợi chút niềm thân mật" nhấn mạnh nỗi cô đơn tuyệt đối, nỗi cô lập của con người giữa thiên nhiên và xã hội. Tất cả tạo nên bức tranh tuyệt vọng, trống vắng nhưng cũng đầy chất thơ, thấm đẫm nỗi lòng tác giả.
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Khổ thơ cuối kết hợp nét cổ điển và lãng mạn trong phong cách Huy Cận, tạo nên cảnh tượng thiên nhiên hùng vĩ với "lớp lớp mây cao đùn núi bạc" – từng lớp mây dày đặc, tràn đầy sức sống, phủ lên núi một màu trắng bạc lung linh dưới ánh sáng. Hình ảnh "chim nghiêng cánh nhỏ" gợi lên sự nhỏ bé, cô đơn giữa vũ trụ rộng lớn, ánh chiều tà buông xuống như phủ bóng u sầu. Đó cũng là thi liệu quen thuộc trong thơ cổ, biểu tượng cho sự bâng khuâng, lạc lõng. Hai câu cuối bật lên nỗi nhớ quê da diết của tác giả, "lòng quê dợn dợn vời con nước", sóng lòng trào dâng khi nhìn về quê nhà, dù không cần ánh lửa "khói hoàng hôn" vẫn vẹn nguyên nỗi nhớ thương. Nỗi nhớ ấy là lòng yêu nước sâu kín, nhớ về những ngày đất nước yên bình xưa kia, trong hoàn cảnh hiện tại đầy bế tắc và đau thương. Huy Cận qua "Tràng Giang" đã ghi dấu ấn sâu sắc trong thi ca Việt Nam tiền cách mạng, bằng giọng thơ vừa cổ điển vừa hiện đại, chan chứa tình cảm và tư tưởng sâu sắc.

9. Bài văn phân tích bài thơ Tràng Giang của nhà thơ Huy Cận - mẫu số 12
Ngày xưa, Huy Cận thường đượm buồn sâu lắng Những câu thơ ấy như gió thoảng qua, thổi vào hồn thơ Huy Cận trước cách mạng tháng Tám, ẩn chứa bao nỗi niềm sâu sắc, chất chứa tình yêu quê hương đất nước. Ông thường chọn thiên nhiên và vũ trụ làm đề tài, khai thác vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại, tạo nên dấu ấn riêng biệt trong phong cách thơ. "Tràng Giang" chính là tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ ấy, không chỉ vẽ nên nỗi cô đơn trước cảnh sắc mênh mông mà còn thấm đẫm tâm sự nhân thế cùng lòng yêu nước thầm kín. Bài thơ được cảm hứng từ một chiều cuối thu ở bến Chèm, khi dòng sông Hồng đang mùa nước lớn. Huy Cận chứng kiến cành củi và bèo trôi lững lờ trên mặt nước rộng lớn, thôi thúc một tứ thơ dạt dào cảm xúc. Nhan đề "Tràng giang" mang âm hưởng cổ điển, tạo không khí trang trọng, phảng phất nét thơ Đường. Việc chọn dùng từ Hán - Việt cùng điệp âm "ang" kéo dài gợi không gian bao la, sâu lắng, làm dấy lên cảm giác bát ngát trong lòng người đọc. Đây cũng không chỉ là một con sông cụ thể, mà còn là biểu tượng cho dòng chảy lịch sử, văn học, và cuộc đời. Lời đề từ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" khơi gợi trọn vẹn cảm xúc chủ đạo của bài thơ: bâng khuâng, thương nhớ trong không gian rộng lớn. Khổ thơ đầu mở ra cảnh sông nước bao la mênh mông: Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Hình ảnh những con sóng nhẹ nhàng liên tiếp, bất tận, làm sống động không gian mênh mông. Bút pháp "lấy động tả tĩnh" tạo lớp nghĩa biểu tượng cho nỗi buồn sâu kín trong tâm hồn con người trước sự vô hạn của vũ trụ. Con thuyền lênh đênh tượng trưng cho số phận nhỏ bé, mong manh của con người giữa dòng đời rộng lớn, một thi liệu quen thuộc nhưng lại được Huy Cận thổi vào sức sống mới, mang vẻ hiện đại, khi thuyền và nước như xa cách, tạo nên cảm giác chia lìa và cô đơn sâu sắc. Câu cuối cùng nhấn mạnh thân phận đơn độc, yếu ớt qua hình ảnh cành củi khô lạc lõng giữa dòng nước rộng lớn — biểu tượng cho tâm trạng bế tắc, mất phương hướng của thi sĩ cùng thế hệ trí thức tiểu tư sản lúc bấy giờ. Khổ thơ thứ hai mở rộng không gian với cảnh chiều buông tĩnh lặng trên sông nước: Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu Từng chi tiết như những cồn cát nhỏ thưa thớt, tiếng làng xa vắng, ánh nắng chiều dần tắt, tạo nên bức tranh thiên nhiên cô đơn, lặng lẽ, tương phản mạnh mẽ với sự bao la của đất trời, làm nổi bật sự nhỏ bé và cô quạnh của con người trong vũ trụ rộng lớn. Khổ ba tập trung vào hình ảnh bèo trôi dạt và sự vắng bóng của những phương tiện kết nối: Bèo dạt về đâu hàng nối hàng Bèo trôi nối tiếp nhau như những kiếp người trôi dạt vô định, không điểm tựa, không hướng đi rõ ràng. Việc thiếu vắng đò ngang, cầu nối tượng trưng cho sự chia lìa, cô lập, gợi nỗi cô đơn, hoang vắng tận cùng. Hai bờ sông xanh và bãi vàng hiện lên như những thế giới biệt lập, lạnh lùng. Khổ cuối thể hiện vẻ đẹp cổ điển pha lẫn nỗi niềm hiện đại sâu lắng: Lớp lớp mây cao đùn núi bạc Cảnh hoàng hôn với mây núi bạc và chim chiều nghiêng cánh tạo nên khung cảnh vừa hùng vĩ vừa man mác buồn. Nỗi nhớ nhà da diết hiện hữu rõ ràng dù không cần đến màu khói hoàng hôn quen thuộc, thể hiện tình yêu quê hương sâu nặng, thầm kín nhưng không kém phần mãnh liệt của thi sĩ. "Tràng Giang" không chỉ là tác phẩm đỉnh cao của Huy Cận mà còn là tiếng nói đại diện cho tâm trạng và thân phận của một thế hệ, một lớp người nhỏ bé, bế tắc nhưng luôn mang trong tim dòng chảy tình yêu quê hương bền bỉ, kiên cường giữa những sóng gió của cuộc đời. Sự hòa quyện giữa cái cũ và cái mới trong thi phẩm đã tạo nên một tác phẩm bất hủ, để lại dấu ấn sâu sắc trong văn học Việt Nam trước cách mạng.
Nhớ thương dường như chưa hề phai nhòa
Lòng chàng có lẽ vẫn ray rứt sau mưa
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

10. Bài văn phân tích và nghị luận sâu sắc về bài thơ Tràng Giang của thi sĩ Huy Cận - mẫu số 13
Khi nhắc đến Huy Cận, người ta không thể quên hình ảnh một “hồn thơ ảo não” như nhận định của Hoài Thanh. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông đã tạo dấu ấn trong thi ca đương thời bằng nỗi sầu nhân thế sâu sắc, cái tôi cô đơn, man mác buồn trước dòng đời phù du. Pha trộn giữa nét cổ điển và hiện đại, ông đã gửi gắm những tâm trạng ấy trong nhiều tác phẩm, tiêu biểu nhất là bài thơ Tràng giang – một kiệt tác nằm trong tập “Lửa thiêng” (1940), đại diện cho phong cách thơ đặc trưng của Huy Cận.
Vào một chiều thu năm 1939, một chàng sinh viên trường Cao đẳng Canh nông đạp xe dọc bờ đê sông Hồng đến bãi Chèm bên bờ Nam dòng sông. Trước cảnh sóng nước bao la mênh mông, cảm xúc cô đơn, buồn nhớ nhà dâng tràn khiến chàng không kìm nén nổi và sáng tác nên bài thơ Tràng giang. Ban đầu, tác phẩm có tên “Chiều trên sông” nhưng về sau đổi thành Tràng giang – một nhan đề mang âm hưởng trang trọng, cổ kính. Nhà thơ không chọn “Trường giang” mà dùng cách điệp vần “ang” tạo nên tiếng vang ngân dài, đồng thời gợi cảm giác dòng sông không chỉ dài mà còn rộng lớn vô biên. Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đã khắc họa sâu sắc nỗi buồn bao trùm toàn bộ bài thơ – nỗi buồn của con người trước không gian rộng lớn như vũ trụ. Thật vậy, trước dòng Tràng giang bao la ấy, thi nhân đã để nỗi buồn lan tỏa, chiếm lĩnh cả không gian và thời gian.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Khổ thơ mở đầu phác họa một bức tranh thiên nhiên mênh mông rộng lớn, đối lập với những hình ảnh nhỏ bé như sóng, con thuyền, cành củi khô. Những hình tượng này đồng thời trở thành biểu tượng cho nỗi buồn lan tỏa rộng khắp mặt sông dài rộng. Những từ như “gợn”, “buồn điệp điệp”, “nước song song”, “sầu trăm ngả”, “lạc mấy dòng” tạo nên một cảm giác lan tỏa, trải dài và bất tận. Dù có sự vật hiện diện, song chúng không hề hòa quyện; đặc biệt là thuyền và nước vốn gắn bó, nay lại ngược chiều, chia lìa tạo nên nỗi sầu da diết. Điểm nhấn tinh tế nhất là hình ảnh “củi một cành khô” – biểu tượng của sự bất lực, khô cằn, nổi trôi vô định trên dòng đời, mang đậm dấu ấn hiện đại và thể hiện sự cô đơn của kiếp người nhỏ bé, lạc lõng giữa mênh mông cuộc sống. Tiếp đến, trong khổ hai, tầm nhìn nhân vật trữ tình mở rộng ra cảnh vật chung quanh – cồn nhỏ, bầu trời, dòng sông rộng lớn.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu.
Không gian dường như không đổi, thậm chí càng tĩnh lặng, vắng vẻ, cô quạnh hơn với sự nhấn mạnh của những từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu”. Tiếng làng xa, chợ tan chỉ như vọng lại yếu ớt, không làm dịu đi sự im lặng bao trùm. “Đâu” vừa có thể là một câu hỏi, vừa có thể là sự phủ định về âm thanh sự sống, làm tăng cảm giác cô độc trống trải. Cách dùng từ “sâu chót vót” thể hiện sự quan sát tinh tế của tác giả khi mở rộng không gian lên ba chiều, vừa cao vừa sâu, tạo chiều sâu mênh mông, vô tận của trời sông. Bến cô liêu trơ trọi càng làm nổi bật nỗi cô đơn lan tỏa khắp nơi. Nhân vật trữ tình lúc này dường như bị choáng ngợp bởi không gian vũ trụ bao la và tìm kiếm sự sống man mác của con người xung quanh.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Hình ảnh hàng bèo nối tiếp nhau dạt về đâu không chỉ gợi sự nhỏ bé, mong manh mà còn biểu hiện cho số phận lênh đênh, bơ vơ của một thế hệ con người. Điệp từ phủ định “không” càng nhấn mạnh sự vắng bóng con người, sự thiếu thốn kết nối, tình thân mật. Thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên trong sự lặng lẽ cô đơn, không gian trải dài vô hạn làm tăng thêm cảm giác lạc lõng, cô độc. Nỗi buồn của con người dường như lan rộng không có điểm dừng.
Tổng hòa ba khổ thơ là bức tranh thiên nhiên vừa mang màu sắc cổ điển vừa pha lẫn nét hiện đại, thể hiện không gian bao la vô tận và nỗi cô đơn sâu sắc của con người. Hy vọng phần cuối bài thơ gợi lên một chút an ủi, xoa dịu, thế nhưng:
Lớp lớp mây cao, đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Khung cảnh thiên nhiên chuyển mình, không còn là dòng sông vắng lặng mà là bầu trời chiều rực rỡ, tráng lệ. Những thi liệu cổ điển như mây, chim được thổi hồn sinh động, tạo nên bức tranh sống động, vừa hùng vĩ vừa nhẹ nhàng. Cánh chim nhỏ nghiêng cánh trong khoảnh khắc chuyển động dường như mang cả nỗi lòng người. Dẫu cảnh sắc có tráng lệ, lòng thi nhân vẫn cảm thấy trống trải, cô đơn hóa thành nỗi nhớ da diết quê nhà. Nỗi nhớ ấy không cần khói sóng hoàng hôn như thi sĩ đời Đường Thôi Hiệu, mà tự thân nó đã khắc sâu tình yêu da diết, thiết tha dành cho quê hương đất nước.
Cảm giác về không gian vô cùng bao la và nỗi cô đơn tận cùng của lòng người đan xen, kích thích nhau, làm chất chứa, tích tụ nỗi sầu nghìn thu trong bài thơ. Vượt lên trên tất cả, sự hòa quyện tinh tế giữa nét cổ điển và hiện đại đã tạo nên một kiệt tác thiên nhiên vừa đẹp vừa buồn, đồng thời ẩn chứa tình yêu quê hương đất nước thầm kín sâu sắc trong từng câu chữ của Tràng giang.

11. Bài văn phân tích sâu sắc về bài thơ Tràng Giang của nhà thơ Huy Cận - mẫu số 14
Huy Cận được ví như nhà thơ của vạn nỗi sầu, mang trong mình tâm hồn nhạy cảm và nỗi buồn sâu thẳm của thời đại trước cách mạng. Tác phẩm Tràng Giang không chỉ thể hiện nỗi buồn mênh mang của thi nhân trước cuộc đời và thời thế mà còn ẩn chứa lời tâm tình yêu nước sâu sắc, kín đáo.
Nhan đề bài thơ với hai vần "ang" vang vọng, mở ra không gian rộng lớn, mênh mông như một dòng sông vũ trụ, không chỉ đơn thuần là con sông bình thường. Việc sử dụng từ Hán Việt làm tăng âm hưởng cổ kính và tính khái quát, tạo nên chiều sâu cho tác phẩm. Lời đề từ mở đầu bài thơ do chính Huy Cận sáng tác:
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
Câu thơ đề từ mở rộng không gian vô tận cả chiều ngang lẫn chiều cao, gợi nên cảm giác bơ vơ, cô đơn, là tiếng lòng của nhiều thế hệ thi nhân trước sự bao la của vũ trụ. Bài thơ bắt đầu bằng khổ thơ thấm đượm nỗi buồn:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Những con sóng lăn tăn theo chiều gió thổi tạo nên không gian yên tĩnh, nhưng đằng sau đó là tâm trạng con người: nỗi buồn chồng chất, lan tỏa qua từng lớp sóng, được thể hiện qua từ láy "điệp điệp". Hình ảnh con thuyền nhỏ bé, lặng lẽ trôi dạt giữa dòng sông mênh mông, như ẩn dụ cho kiếp người cô đơn, phó mặc cho dòng đời xô đẩy. Đặc biệt, hình ảnh "củi một cành khô" nhấn mạnh sự cô đơn, bơ vơ, tượng trưng cho thân phận con người nhỏ bé, lạc lõng giữa dòng đời rộng lớn.
Huy Cận chuyển điểm nhìn gần hơn đến những bãi, cồn sông với hình ảnh:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xe vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
Khung cảnh tĩnh lặng, vắng vẻ được nhấn mạnh bằng các từ láy "lơ thơ", "đìu hiu" khiến nỗi buồn càng thêm sâu sắc, lan rộng theo không gian mênh mông, bao la ba chiều: rộng, cao, sâu. Thi nhân như bị choáng ngợp, nhỏ bé trước sự bao la của đất trời, trong khi cố tìm kiếm sự sống qua tiếng chợ xa vãn chiều nhưng chỉ thấy sự tĩnh lặng tuyệt đối.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cần gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Hàng bèo trôi dạt vô định, nối tiếp nhau như những thân phận nhỏ bé, đơn côi giữa cuộc đời bát ngát, không có điểm tựa, không có chuyến đò hay cây cầu để kết nối yêu thương. Không gian bao la tiếp tục nhấn mạnh sự cô đơn, bơ vơ, khiến nỗi buồn càng thêm sâu nặng.
Khổ thơ cuối mở ra một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Bầu trời rộng lớn với những áng mây như núi bạc đang dần tụ lại, cánh chim nhỏ bé nghiêng nghiêng trong ánh chiều tà, tạo nên hình ảnh vừa tráng lệ vừa cô đơn. Nỗi nhớ quê nhà dâng trào trong lòng thi nhân, da diết và day dứt, như hòa cùng dòng nước, là tiếng lòng yêu nước sâu kín mà thiết tha.
Tràng Giang là sự kết hợp hài hòa giữa nét cổ điển và hiện đại, khắc họa một thiên nhiên mênh mông, hoang vắng đồng thời phản chiếu cái tôi bơ vơ, cô đơn cùng nỗi buồn bất tận của con người trước vận nước, qua đó ẩn chứa tình yêu quê hương thầm lặng nhưng mãnh liệt.

12. Bài văn nghị luận về bài thơ Tràng Giang của thi sĩ Huy Cận - mẫu số 15
Huy Cận, một trong những thi sĩ nổi bật của phong trào Thơ Mới, sở hữu giọng thơ riêng biệt đậm sâu về xã hội và triết lí. Thơ ông chứa đựng nỗi buồn thấm đẫm, mênh mang, vừa ảo não vừa bi thương – nỗi buồn của "đêm mưa", "người lữ thứ", "quán chật đèo cao" và "trời rộng sông dài". Bài thơ "Tràng Giang" – sáng tác năm 1939, đăng trên báo Ngày Nay và sau đó được in trong tập "Lửa Thiêng" – mang đậm phong vị Đường thi, lấy cảm hứng từ cảnh sắc sông Hồng. Huy Cận từng chia sẻ rằng ông thường dành chiều Chủ Nhật để ngắm nhìn cảnh vật sông Hồng và Hồ Tây, nơi khơi nguồn cho cảm xúc sáng tác, đồng thời bài thơ còn gợi cảm xúc chung cho những dòng sông quê hương khác.
Lời đề từ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" tóm gọn chủ đề bài thơ – nỗi niềm bâng khuâng không lời giữa khoảng trời đất mênh mông. Bài thơ toát lên vẻ đẹp pha trộn giữa hiện đại và cổ điển – nét đặc sắc trong thi ca Huy Cận. Mở đầu là hình ảnh dòng sông rộng lớn, khổ thơ đầu khiến người đọc liên tưởng đến dòng "tràng giang" thăm thẳm, chứa đầy nỗi buồn da diết.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Khổ thơ thể hiện vẻ đẹp cổ điển rõ nét qua từ ngữ gợi buồn thê lương như "buồn", "sầu trăm ngả", "lạc mấy dòng" và từ láy "điệp điệp", "song song", đầy chất thơ Đường thi, lột tả nỗi buồn sâu tận cùng. Hình ảnh con thuyền xuôi mái, lững thững trôi trên dòng sông dài rộng tạo nên sự tĩnh lặng bao la. Dòng nước bát ngát phản chiếu tâm trạng đầy trăn trở của con người. Khoảng cách giữa "thuyền" và "nước" gợi lên nỗi sầu chia lìa, lan tỏa không điểm dừng. Đặc biệt, hình ảnh "củi một cành khô" cô đơn, khô héo, trôi dạt vô định tượng trưng cho kiếp người nhỏ bé, bơ vơ giữa dòng đời.
Huy Cận chuyển điểm nhìn gần hơn với bãi cồn nhỏ vắng vẻ qua hình ảnh "Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu" – tiếng gió thổi hiu quạnh, vắng lặng, như phủ lên không gian một nỗi buồn thấm thía. Tiếng chợ chiều xa xôi không rõ, khiến cảnh vật thêm phần cô liêu, hoang vắng. Sự kết hợp giữa "sâu chót vót", "sông dài", "trời rộng" mở rộng không gian ba chiều, khắc họa sự nhỏ bé, cô đơn tột cùng của con người trước vũ trụ mênh mông.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Khổ thơ thứ ba thể hiện sự vận động của thiên nhiên, nhưng vẫn ngập tràn nỗi cô đơn. Những hàng bèo trôi dạt vô định như cuộc đời người nhỏ bé, không bến đỗ. Mặt sông rộng lớn không một chuyến đò ngang – biểu tượng của sự gắn kết tình người – làm tăng cảm giác cô liêu, ngăn cách.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Khổ thơ cuối là sự hòa quyện giữa thiên nhiên hùng vĩ và nỗi nhớ nhà da diết. Hình ảnh "mây cao" chất chồng như núi bạc, cánh chim nhỏ nghiêng giữa bóng chiều tạo nên sự đối lập giữa vẻ tráng lệ của đất trời và cái nhỏ bé, cô đơn của con người. Nỗi nhớ quê hương trở nên mãnh liệt, “dợn dợn” như sóng nước vỗ về, dù không một bóng khói hoàng hôn, lòng người vẫn day dứt nhớ nhà.
Bài thơ "Tràng Giang" kết hợp nhuần nhuyễn yếu tố cổ điển và hiện đại, tạo nên bức tranh thiên nhiên rộng lớn, vắng lặng, phản ánh tâm trạng cô đơn, lạc lõng của con người cùng tình yêu quê hương sâu sắc. Qua nghệ thuật ngôn từ tinh tế và kết cấu chặt chẽ, Huy Cận đã khắc họa một bản hòa ca thi ca đầy cảm xúc về thiên nhiên và đất nước, được nhà thơ Xuân Diệu đánh giá là "bài thơ ca non sông đất nước, mở đường cho lòng yêu tổ quốc".

13. Bài văn nghị luận về bài thơ Tràng Giang của nhà thơ Huy Cận – mẫu số 1
Nhà thơ Cù Huy Cận, hay gọi tắt là Huy Cận, với giọng thơ đặc sắc đã ghi dấu ấn sâu đậm trong phong trào Thơ Mới 1930 – 1945. Quê hương ông thuộc Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trong cuốn Thi nhân Việt Nam, các tác giả từng nhận xét:
Không như nhiều thi nhân khác, Huy Cận không cần tìm kiếm cảnh vật để làm thơ, bởi nguồn cảm hứng đã sẵn có trong lòng ông, nơi ấy ẩn chứa mọi tâm tư, suy nghĩ, hòa quyện cùng thiên nhiên trời mây sông nước.
Trước Cách mạng tháng Tám, thơ ông tràn ngập nỗi sầu nhân thế và ca ngợi vẻ đẹp tạo hóa qua các tác phẩm tiêu biểu như “Lửa Thiêng”, “Vũ Trụ Ca”, “Kinh Cầu Tự”. Sau cách mạng, tâm hồn thi sĩ trở nên tươi sáng hơn, cảm hứng từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động, thể hiện qua các bài thơ như “Trời Mỗi Ngày Lại Sáng”, “Đất Nở Hoa”, “Bài Thơ Cuộc Đời”...
Bài thơ "Tràng Giang" là minh chứng rõ nét cho vẻ đẹp thiên nhiên hòa quyện với nỗi ưu tư đời người – nét đặc trưng tiêu biểu trong thơ Huy Cận. Đây cũng là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông trước Cách mạng tháng Tám.
Tác phẩm được trích trong tập "Lửa Thiêng", được sáng tác khi Huy Cận đứng trên bờ Nam bến Chèm, nhìn ra dòng sông Hồng mênh mang sóng nước, lòng dâng lên nỗi buồn vời vợi, cảm thương cho thân phận con người nhỏ bé, trôi nổi giữa dòng đời vô định. Bài thơ vừa mang hơi thở cổ điển vừa đượm nét hiện đại, tạo nên sức hấp dẫn lôi cuốn người đọc.

14. Bài văn nghị luận về bài thơ Tràng Giang của nhà thơ Huy Cận – mẫu số 2
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng viết: “Cuộc đời ta nằm gọn trong vòng chữ tôi. Khi ta đánh mất bề rộng, ta đi tìm chiều sâu. Nhưng càng đi sâu lại càng lạnh. Ta phiêu bồng cùng Thế Lữ, đắm say cùng Xuân Diệu, điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, rồi cuối cùng trở về nỗi buồn ngơ ngẩn cùng Huy Cận.”
Như thế, Huy Cận là một nhà thơ tài hoa trong phong trào Thơ Mới, sở hữu một tâm hồn buồn man mác, chất chứa suy tư sâu sắc và triết lý thâm trầm. "Tràng Giang" là tác phẩm tiêu biểu thể hiện nỗi cô đơn của cái tôi trước thiên nhiên rộng lớn, đồng thời ẩn chứa tình người, tình đời và lòng yêu nước thầm kín sâu sắc.
Thơ ông giàu chất suy tưởng, hàm súc. Trước Cách mạng, nỗi buồn trong thơ ông trải dài, da diết, không phải vô cớ mà chính là nỗi thương cảm sâu sắc với cuộc đời, kiếp người và quê hương đất nước. Sau Cách mạng, thơ ông hòa quyện giữa con người và thiên nhiên, chan chứa hy vọng.
Bài thơ "Tràng Giang", ban đầu mang tên "Chiều Trên Sông", sau được đổi thành "Tràng Giang", in trong tập "Lửa Thiêng" – tập thơ đầu tay của Huy Cận. Bài thơ bao trùm nỗi buồn sâu rộng về đời người và số phận nhỏ bé, được cảm hứng khi ông đứng bên bờ Nam bến Chèm, nhìn dòng sông Hồng mênh mông sóng nước, tâm trạng trĩu nặng trước thân phận con người và vận nước.

15. Bài văn phân tích sâu sắc về bài thơ Tràng Giang của nhà thơ Huy Cận – mẫu số 3
Huy Cận, được mệnh danh là thi sĩ của vạn nỗi sầu, mang trong thơ mình nỗi buồn thấm đượm của một thời đại chuyển mình. Tác phẩm "Tràng giang" là minh chứng tiêu biểu cho nỗi sầu rộng lớn của ông trước cuộc đời, trước lịch sử, đồng thời ẩn chứa tâm sự sâu kín và lòng yêu nước thầm lặng.
Nhan đề bài thơ với hai âm “ang” vang vọng, mở ra không gian mênh mông vô tận. Dòng sông hiện lên không chỉ là một hình ảnh cụ thể, mà còn mang tầm vóc vũ trụ, vừa cổ kính vừa đầy sức khái quát qua ngôn ngữ Hán Việt.
Không phải bài thơ nào cũng có lời đề từ, và lời đề từ trong "Tràng giang" đã mở rộng chiều sâu cảm xúc, bao quát chủ đề xuyên suốt tác phẩm:
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
Lời đề từ gợi nên không gian rộng lớn bát ngát, khiến con người lạc lõng và bơ vơ trước đất trời bao la – một cảm xúc đồng điệu với biết bao thi nhân qua các thời đại.
Bài thơ mở đầu bằng khổ thơ tràn ngập nỗi buồn sâu lắng:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Sóng lăn tăn theo chiều gió, tĩnh lặng nhưng ẩn chứa tâm trạng u uẩn. Từ láy “điệp điệp” biểu hiện lớp lớp nỗi buồn chồng chất, lan tỏa trong lòng người. Hình ảnh chiếc thuyền xuôi mái như tả trạng thái buông xuôi, trôi dạt không điểm tựa, phản chiếu thân phận con người nhỏ bé giữa dòng đời rộng lớn. Hình ảnh “cành củi khô” cô đơn trôi lạc giữa dòng sông là ẩn dụ sâu sắc cho những kiếp người lạc lõng, bơ vơ trong cuộc sống.
Điểm nhìn của nhà thơ dần dịch chuyển gần lại, với hình ảnh "lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu" gợi nên sự trống vắng, hiu quạnh của bãi bồi trên sông Hồng. Tác giả mải miết tìm kiếm hơi ấm cuộc sống qua tiếng chợ xa vắng, nhưng mọi thứ chỉ còn là tĩnh lặng tuyệt đối.
Không gian được mở rộng đến tận cùng chiều rộng, chiều cao và chiều sâu: nắng xuống, trời lên sâu chót vót, sông dài, trời rộng. Tất cả khắc họa sự cô đơn cùng cực, sự nhỏ bé trước vũ trụ mênh mông.
Đôi mắt thi sĩ hướng ra vô cùng, chỉ thu lại hình ảnh:
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cần gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Hình ảnh bèo lênh đênh vô định, nối tiếp trôi chảy như ẩn dụ cho những kiếp người cô đơn, không bến bờ. Sông nước mênh mông không một chuyến đò qua, biểu tượng của sự kết nối, gắn bó cũng mất hút, phủ nhận mọi tình cảm thân thương, để lại một không gian lạnh lẽo, tĩnh mịch.
Khổ thơ cuối mở ra bức tranh đa tầng với bầu trời cao vời vợi:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa.”
Những đám mây như núi bạc phản chiếu ánh chiều tà hùng vĩ, trong khi cánh chim nhỏ bé đơn độc như bị nuốt chửng trong không gian rộng lớn. Trước thiên nhiên cô tịch, lòng thi sĩ dâng lên nỗi nhớ nhà sâu sắc:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Câu thơ gợi nhớ đến truyền thống thi ca xưa nhưng cách thể hiện của Huy Cận vô cùng tinh tế và mới mẻ, khắc họa nỗi nhớ quê da diết, không nguôi trong lòng người, đồng thời biểu lộ lòng yêu nước thầm kín, sâu sắc.
"Tràng giang" là bản hòa ca của sự giao thoa giữa cổ điển và hiện đại, tái hiện thiên nhiên bao la, cô đơn, đồng thời phác họa cái tôi bơ vơ, nỗi buồn vô tận giữa đất trời rộng lớn. Bài thơ cũng là tiếng lòng yêu nước sâu lắng, kín đáo mà mãnh liệt của nhà thơ.

Có thể bạn quan tâm

Khám phá công thức gà nướng giấy bạc đậm đà, thơm ngon để chiêu đãi gia đình vào cuối tuần này.

Khám phá 2 điểm đến du lịch đặc sắc tại Yên Định (Thanh Hoá)

Top 7 Nhà Hàng Pizza Được Yêu Thích Nhất Tại TP. Phú Quốc, Kiên Giang

Top 4 Địa chỉ sửa chữa máy tính/laptop đáng tin cậy nhất tại Vĩnh Phúc

Hướng dẫn thay đổi cài đặt proxy
