Top 6 bài cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp mùa thu và tâm tình thi sĩ trong "Câu cá mùa thu" của Nguyễn Khuyến
Nội dung bài viết
1. Bài viết gợi ý số 4
Nguyễn Khuyến – nhà thơ tài hoa với học vấn uyên bác – từng làm quan hơn mười năm rồi lui về quê dạy học, để lại hơn 800 tác phẩm thơ chữ Hán và chữ Nôm. Trong kho tàng ấy, đề tài làng quê chiếm vị trí đặc biệt, và “Câu cá mùa thu” là một thi phẩm tiêu biểu. Thuộc chùm ba bài thơ thu (Thu vịnh, Thu ẩm, Thu điếu), bài thơ được viết khi ông ẩn cư tại làng quê, là bức tranh sống động về cảnh thu và tình thu nơi đồng bằng Bắc Bộ.
Tác phẩm mang phong vị cổ điển đặc trưng, với cảm xúc thu sâu lắng, nhẹ nhàng, thanh tịnh. Từ “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo”, nhà thơ mở ra không gian thu mênh mang từ làn nước đến trời cao xanh ngắt. Chiếc lá vàng “khẽ đưa vèo” lặng lẽ, cùng làn sóng nhẹ “gợn tí” vẽ nên sự tĩnh mịch, êm đềm của thiên nhiên. Con người chỉ thấp thoáng xuất hiện: một vị khách nơi ngõ vắng, một dáng ngồi bất động trong chiếc thuyền câu, như hóa đá giữa khung cảnh bao la.
Âm thanh duy nhất – “Cá đâu đớp động dưới chân bèo” – không phá vỡ sự yên tĩnh, mà trái lại, làm tôn thêm vẻ thanh u của cảnh vật. Cảnh thu tĩnh lặng ấy như phản chiếu tâm trạng cô tịch, sâu kín của nhà thơ – một trí sĩ ẩn dật, mang nỗi niềm thời cuộc. Hình ảnh, ngôn từ, vần điệu đều nhuần nhị, giàu tính biểu cảm và nghệ thuật ước lệ cổ điển phối kết hài hòa cùng cảm xúc rất thực đời sống.
Bằng lối tả cảnh ngụ tình đặc sắc, Nguyễn Khuyến không chỉ phác họa vẻ đẹp thuần khiết của làng quê Việt mà còn bộc lộ tâm sự kín đáo, thâm trầm của chính mình. “Câu cá mùa thu” là minh chứng cho tài năng ngôn ngữ bậc thầy, tình yêu quê hương sâu sắc và phẩm chất thanh cao của một kẻ sĩ chân chính.


2. Bài viết tham khảo số 5
Thiên nhiên bốn mùa từ lâu đã trở thành nguồn thi hứng bất tận trong thơ ca trung đại, với những bút pháp ước lệ, tượng trưng đầy tinh tế. Nhưng đến Nguyễn Khuyến – cây bút tiêu biểu cuối cùng của nền văn học trung đại thế kỷ XIX – thì thiên nhiên không còn chỉ là biểu tượng mà trở thành hiện thực sống động, gần gũi với làng quê Việt. Trong bài thơ “Câu cá mùa thu”, ông đã vẽ nên một bức tranh mùa thu đậm hồn quê Bắc Bộ, giản dị mà sâu lắng, qua đó bộc lộ tình cảm và tâm sự của một nhà nho ẩn sĩ giữa dòng đời biến động.
Hình ảnh mùa thu hiện ra qua những nét vẽ mộc mạc:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Chỉ với hai câu mở đầu, không gian đã thu gọn lại trong khuôn cảnh một ao thu nhỏ, làn nước trong veo, chiếc thuyền câu bé xíu gợi lên sự cô tịch, thanh bình. Những chi tiết tiếp theo như “sóng biếc”, “lá vàng”, “tầng mây”, “trời xanh”, “ngõ trúc”... hiện ra nhẹ nhàng như một làn sương mỏng, đưa người đọc vào một thế giới tĩnh lặng đến lạ thường. Cách gieo vần "eo" liên tục làm tăng thêm nhịp điệu ngân nga, réo rắt, đầy chất suy tư trong lòng thi nhân.
Mùa thu trong “Thu điếu” mang gam màu chủ đạo là xanh và vàng – sắc xanh của nước, trời, trúc; sắc vàng của lá rụng – gợi lên một không gian nên thơ, mang vẻ đẹp trong trẻo mà tĩnh mịch. Cách miêu tả của Nguyễn Khuyến kết hợp nhuần nhuyễn giữa thi pháp cổ điển với cảm xúc hiện thực, tạo nên một cảnh thu không chỉ có hình mà còn có hồn.
Ẩn sau bức tranh mùa thu ấy là tâm sự thầm kín của nhà thơ – một nhà nho yêu nước sống trong thời buổi đất nước lâm nguy, triều đình nhu nhược, nhân dân lầm than. Nguyễn Khuyến từng không giấu được sự phẫn uất trước thời cuộc trong thơ trào phúng của mình. Nhưng ở “Câu cá mùa thu”, ông chọn cách ẩn mình trong khung cảnh thôn dã, lánh đục về trong như một bậc hiền triết:
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao”
Hai câu thơ cuối khắc họa hình ảnh người câu cá như tượng đá, bất động, buông lơi cần câu không màng cá cắn mồi. Nhưng chỉ một tiếng "cá đâu đớp động dưới chân bèo" vang lên như đánh thức một cõi lòng trầm lặng, là biểu hiện cho nỗi lòng đang chất chứa bao suy tư về vận nước, về thân phận trí sĩ trong thời loạn.
“Câu cá mùa thu” không chỉ là một tuyệt tác tả cảnh mà còn là bài thơ chan chứa tình người, tình quê, tình đời. Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình bậc thầy, cùng ngôn ngữ dung dị mà sâu sắc, Nguyễn Khuyến đã để lại một viên ngọc quý trong kho tàng thơ ca dân tộc – nơi mùa thu của đất nước trở thành biểu tượng của tâm hồn Việt: lặng lẽ, trầm tư mà vẫn sáng trong và kiêu hãnh.


3. Bài văn gợi ý số 6 – Tinh tuyển và sâu sắc
Nguyễn Khuyến – nhà thơ của làng quê Việt Nam, là người đã đưa hồn quê trở về đúng với bản sắc văn hóa dân tộc. Ông không chỉ viết về làng cảnh mà còn thổi vào đó tình yêu, sự gắn bó và một cảm quan sâu sắc. Trong số những tác phẩm mang đậm dấu ấn của ông, không thể không nhắc đến bài thơ “Thu điếu” – một tuyệt phẩm thi ca mô tả mùa thu Bắc Bộ với vẻ đẹp dung dị, thanh tao và đầy thi vị.
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”
Hai câu thơ mở đầu như một khúc dạo đầu nhẹ nhàng, phác họa không gian tĩnh lặng của ao thu. Tính từ “lạnh lẽo” và “trong veo” không chỉ miêu tả cảnh vật mà còn gợi cảm giác thanh khiết, vắng lặng, cô đơn. Âm điệu “eo” vang vọng, làm tăng thêm sự se sắt và độ trong của không gian thu nhỏ ấy.
“Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Chiếc thuyền nhỏ như nét chấm phá trên mặt ao thu, gợi sự yên ả mà cũng rất đỗi cô quạnh. “Tẻo teo” không chỉ mô tả kích thước mà còn truyền tải cảm xúc cô liêu, lặng lẽ giữa không gian bao la.
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.”
Cảnh vật lay động nhẹ nhàng như bước chân ai thoáng qua hồn thơ. Những từ ngữ tinh tế như “biếc”, “gợn tí”, “vàng”, “vèo” gợi ra một bức tranh mùa thu sống động mà vẫn yên bình. Đó là thu trong chuyển động tinh tế, một nhịp điệu nhẹ như sương khói, thoảng như mộng mơ.
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.”
Không gian mở rộng lên trời cao, xuống ngõ vắng, khiến cảnh thu càng thêm mênh mang và sâu lắng. Từ “lơ lửng”, “xanh ngắt”, “quanh co”, “vắng teo” cùng nhau khắc họa một khung cảnh cô tịch nhưng chan chứa thi vị, đậm chất cổ điển mà Nguyễn Khuyến rất thành công khi biểu đạt.
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”
Hình ảnh người câu cá hiện ra ở cuối bài, không ồn ào, không phô trương, chỉ là một bóng dáng thong dong, hòa mình vào thiên nhiên. Âm thanh “đớp động” như đánh thức mọi giác quan đang mơ màng giữa khung cảnh trữ tình, mang đến chút chuyển động cho không gian vốn lặng tờ.
“Thu điếu” không chỉ là bài thơ tả cảnh mà còn là bản giao hưởng hài hòa giữa thiên nhiên và con người, giữa cái tĩnh và cái động, giữa nỗi cô đơn và sự thanh thản. Qua từng vần thơ, Nguyễn Khuyến đã vẽ nên một bức tranh mùa thu đậm chất quê, đượm tình thi sĩ và lưu dấu trong lòng người đọc như một áng thơ bất hủ.


4. Gợi ý bài văn tham khảo số 1 – Nét chấm phá đầu tiên của cảm hứng sáng tạo
Nguyễn Khuyến – bậc danh sĩ nặng lòng với quê hương – được mệnh danh là thi nhân của làng cảnh Việt Nam, người đã khắc họa mùa thu quê nhà bằng những vần thơ nhẹ nhàng mà sâu lắng. Sau khi cáo quan, ông trở về ẩn dật nơi làng quê, để rồi từ cuộc sống thanh bần ấy, thơ ông lặng lẽ vang lên như tiếng lòng chan chứa tình yêu nước, thương dân. Trong chùm thơ thu nổi tiếng của mình, Nguyễn Khuyến không chỉ vẽ nên bức tranh phong cảnh mùa thu thanh bình, mà còn gửi gắm tâm sự buồn đau, thao thức của một người trí sĩ trước vận nước.
Cảnh thu trong thơ ông hiện lên dung dị, thân thuộc: ao thu trong veo, chiếc thuyền câu nhỏ bé, sóng biếc lăn tăn, lá vàng nhẹ rơi theo gió. Mỗi chi tiết đều thấm đẫm nét mộc mạc, nên thơ của làng quê Việt. Hình ảnh "ao thu lạnh lẽo", "chiếc thuyền câu bé tẻo teo", hay "lá vàng trước gió khẽ đưa vèo" không chỉ là cảnh, mà còn là tâm. Đó là nỗi trầm mặc của mùa thu, là cảm xúc lặng lẽ của một tâm hồn yêu thiên nhiên và hoài niệm khôn nguôi.
Tiếp nối là bức tranh trong "Thu vịnh", nơi trời thu xanh ngắt, nước biếc như khói phủ, ánh trăng soi qua song thưa, tất cả đều mang vẻ đẹp phảng phất buồn. Những hình ảnh như "ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe", "làn ao lóng lánh bóng trăng loe" tạo nên vẻ thơ mộng bảng lảng, như một làn khói mỏng của ký ức. Cái đẹp ấy không lộng lẫy mà đằm sâu, không rực rỡ mà thấm thía.
Không chỉ đẹp về hình ảnh, thơ thu Nguyễn Khuyến còn thấm đẫm một nỗi buồn sâu kín. Buồn vì thời thế, vì cảnh nước mất nhà tan, buồn vì cảm giác bất lực trước sự đổi thay của xã hội. Câu thơ "Mấy lão không vầy cũng đỏ hoe" hay "ngõ trúc quanh co khách vắng teo" thể hiện rõ tâm trạng hoài cổ, cô đơn của nhà thơ. Mỗi hình ảnh, mỗi sắc màu, mỗi chuyển động trong thơ đều như gói ghém một nỗi niềm, một tâm sự của người từng trải.
Nguyễn Khuyến làm thơ thu không chỉ để tả cảnh, mà là để gửi gắm tâm tình, để giãi bày nỗi đau trước hiện thực đất nước bị đô hộ, đồng thời thể hiện tình yêu sâu sắc với thiên nhiên và con người quê hương. Chính sự giao hòa giữa cảnh và tình, giữa cái đẹp thanh đạm và tâm hồn thi nhân đã tạo nên một mùa thu đặc trưng trong văn học Việt Nam – một mùa thu vừa bình dị, vừa sâu sắc, vừa nên thơ mà cũng vô cùng trĩu nặng tâm sự.
Vì lẽ đó, Nguyễn Khuyến xứng đáng là người nghệ sĩ lớn, là nhà thơ của mùa thu Việt Nam – người đã để lại trong kho tàng văn học dân tộc một bức tranh thu bất hủ, vừa gợi cảnh, vừa lay động lòng người bằng thứ tình cảm trong sáng, chan chứa nghĩa tình với non sông gấm vóc.


5. Bài văn mẫu đặc sắc số 2
Nguyễn Khuyến – cây bút thơ Nôm trác tuyệt của văn học Việt Nam – đã để lại dấu ấn sâu đậm nhất qua ba kiệt tác mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh. Ba bài thơ này như ba bức tranh thu được khắc họa với hồn Việt, từ cảnh sắc, âm thanh cho đến tâm hồn. Dù tên gọi mang âm hưởng chữ Hán, song chúng đã trở thành những viên ngọc quý trong kho tàng văn học dân tộc, được yêu mến, thuộc lòng và truyền tụng qua bao thế hệ.
Thu điếu mở ra không gian tĩnh lặng của một ao thu nhỏ với chiếc thuyền câu đơn độc. Cảnh sắc miền Bắc hiện lên chân thực, không vướng bụi mờ ước lệ: làn sóng biếc gợn nhẹ, lá vàng xoay xoay trong gió, mây lơ lửng, ngõ trúc quanh co vắng lặng. Từng nét vẽ vừa sắc, vừa trong, vừa thoảng hồn quê. Đặc biệt, câu “Làn ao lóng lánh bóng trăng loe” là minh chứng cho tài năng thi ca của Nguyễn Khuyến – ánh trăng như vỡ loé trên mặt nước tĩnh, bốn chữ “l” và ba dấu sắc khiến âm thanh và hình ảnh giao hòa đầy sống động.
Thu ẩm không chỉ dừng lại ở cảnh đêm trăng mà còn mang dáng dấp của nhiều thời điểm, nhiều cung bậc cảm xúc. Những hình ảnh như “ngõ tối đêm sâu”, “làn ao lóng lánh”, “lưng giậu khói nhạt”… tạo thành một bức tranh làng quê Bắc Bộ đầy cảm xúc. Ẩn sau đó là tâm sự của người thi sĩ – người đang đối diện với thời gian, không gian, và chính mình. Câu thơ “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?” như cất lên tiếng thở dài của sự bâng khuâng giữa thiên nhiên và phận người.
Thu vịnh là bức tranh mang cái thần của trời thu. Từ “trời thu xanh ngắt” đến “song thưa để mặc bóng trăng vào”, “mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái”... tất cả nhẹ nhàng, thanh thoát như khúc nhạc thu ngân vang giữa không trung. Câu “Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào” là tiếng lòng thổn thức, khát vọng về sự thoát tục, rời xa danh lợi, trở về với tự do và thiên nhiên.
Cả ba bài thơ là sự hòa quyện hoàn mỹ giữa tâm hồn thi sĩ và hồn cốt làng quê Việt. Chúng không chỉ đẹp ở hình thức Nôm thuần Việt, mà còn vì đã khắc họa mùa thu bằng cảm xúc, bằng đời sống thật. Nguyễn Khuyến không chỉ viết về thu – ông chính là thu của đất Việt, là người đã sống, đã yêu, và đã thở cùng ruộng đồng, làng mạc suốt hơn bốn thập kỷ cuộc đời. Từ đó, hồn dân tộc hòa vào hồn thơ – tự nhiên, chân chất mà sâu xa, để lại dư âm mãi mãi.


6. Bài văn mẫu tham khảo số 3
Thu về mang theo sắc màu man mác buồn, với làn gió heo may se lạnh cùng những chiếc lá vàng nhẹ nhàng rơi rụng, để lại cành cây trơ trọi, nao lòng. Mùa thu luôn khơi gợi trong lòng người bao cảm xúc bâng khuâng, trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho thi nhân. Quay ngược dòng lịch sử, ta gặp những mùa thu tuyệt đẹp ngập tràn trong từng trang thơ của biết bao thế hệ. Khi nhắc đến mùa thu, không thể không nhớ đến "Câu cá mùa thu" của Nguyễn Khuyến – một bức tranh mùa thu sống động được Xuân Diệu đánh giá là "điển hình nhất cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam".
"Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo."
Bài thơ ghi dấu ấn sâu sắc qua việc vận dụng mật độ vần "eo" dày đặc – tổng cộng bảy tiếng, khiến không gian và hình ảnh như được thu nhỏ, cô đọng đến mức tinh tế. Tiếng "eo" trong tiếng Việt thường khiến sự vật trở nên gọn gàng, chặt chẽ hơn. Thu mang theo hơi lạnh ngấm ngầm được nhấn mạnh qua "lạnh lẽo"; mặt hồ trong trẻo hơn qua "trong veo"; chiếc thuyền câu nhỏ bé trở nên mong manh với "bé tẻo teo". Hình ảnh "Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo" gợi nhớ đến nét thơ trữ tình, mỏng manh của Trần Đăng Khoa với hai câu:
"Ngoài thềm rơi chiếc lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng."
Ở đây, động từ "vèo" tạo nên cảm giác lá rơi nghiêng mềm mại, như không chỉ là sự kiện vật lý mà còn là chuyển động trong tâm thức thi sĩ – chiếc lá trở nên mơ hồ, như một ảo ảnh khó nắm bắt. Qua nét phác họa này, bức tranh mùa thu rung động nhẹ nhàng dưới ngòi bút của Nguyễn Khuyến.
Hai câu đề của bài thơ giới hạn bức tranh trong không gian nhỏ bé của "ao thu" – nơi không rộng lớn mà mang nét đặc trưng thân thương, dễ thương như một bức tranh thu nhỏ có thể đặt trong lòng bàn tay, thể hiện vẻ đẹp giản dị, sâu sắc của làng quê Việt Nam.
Tiếp đó, không gian mở rộng về phía bầu trời qua hình ảnh:
"Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt"
Động từ "lơ lửng" gợi cảm giác chuyển động nhẹ nhàng, như tĩnh mà động, những đám mây bồng bềnh trôi chầm chậm trên nền trời xanh trong vắt, tương tự như chiếc thuyền câu khẽ lắc trong làn sóng dịu dàng của mặt hồ thu.
Hình ảnh:
"Sóng biếc theo làn hơi gợn tí"
Được miêu tả như nét chấm phá nhẹ nhàng, tinh tế, gợi lên hình ảnh mặt nước lăn tăn, mờ ảo, khác xa với sóng biển dào dạt, tạo nên bức tranh mùa thu đằm thắm, tĩnh mịch. Câu châm ngôn rằng không có vẻ đẹp kiệt xuất nào mà không mang nét kỳ quặc càng thêm phần thuyết phục khi ta đọc:
"Ngõ trúc quanh co khách vắng teo"
Dù mang chút cảm giác cô đơn, rợn ngợp, nhưng bức tranh mùa thu vẫn giữ được nét nên thơ, bình yên và trong sáng. Con người nhà thơ cũng hiện lên rõ nét qua:
"Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo."
Hình ảnh "tựa gối buông cần" như lời thổn thức của người thi sĩ đang canh cánh trong lòng nỗi buồn thời cuộc sâu sắc, một nỗi niềm day dứt không nguôi suốt cuộc đời. Cuối bài thơ, âm thanh "đâu đớp động" vang lên như đánh thức bức tranh tĩnh lặng, làm cảnh vật bừng sức sống, đồng thời nhấn mạnh sự tĩnh mịch sâu lắng qua cách chơi chữ đối nghịch giữa động và tĩnh, làm nổi bật nỗi buồn bao trùm khung cảnh.
Bài thơ còn đong đầy sắc xanh của trời, mây, lá và mặt nước mùa thu, hòa quyện tạo nên bức tranh hài hòa, cân đối và đậm đà màu sắc Việt Nam. Chiếc lá vàng điểm xuyết thêm vẻ đẹp độc đáo cho mùa thu.
Đọc "Câu cá mùa thu", ta càng thêm yêu đất nước non sông thân thương. Bức tranh mùa thu hiện lên đậm nét vẻ đẹp thiên nhiên đặc trưng giữa những đổi thay và xô bồ của cuộc sống. Phải chăng, đôi khi ta cần lặng lòng thưởng thức "Thu điếu" để thanh lọc tâm hồn, để yêu hơn tiếng Việt trong sáng, giàu đẹp cùng quê hương đất nước thân yêu này...


Có thể bạn quan tâm

Khám phá phương pháp giảm cân hiệu quả với bột ngũ cốc

Giải mã lý do tại sao bà bầu không nên ăn đồ thừa vì có thể mang đến điều xui xẻo

Senka lần đầu tiên giới thiệu dòng kem chống nắng đặc biệt, dành riêng cho làn da nhạy cảm, giúp bảo vệ và chăm sóc da tối ưu.

Hướng dẫn chặn tin nhắn văn bản trên iPhone

Gluconolactone - thành phần tẩy tế bào chết dịu nhẹ, lý tưởng cho làn da nhạy cảm
