Top 6 bài soạn đặc sắc nhất cho bài thơ "Đò Lèn" của Nguyễn Duy lớp 12
Nội dung bài viết
1. Bài soạn phân tích bài thơ "Đò Lèn" của Nguyễn Duy - Phiên bản số 4
A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM
1. Tác giả:
Nguyễn Duy là một nhà thơ có công làm mới thể thơ truyền thống bằng giọng điệu vừa ngang tàng vừa trầm tĩnh, giàu chất suy tư. Thơ ông ngấm sâu vào lòng người đọc bởi sự chân thành, giản dị và khả năng gợi mở nhiều tầng ý nghĩa. Các tác phẩm tiêu biểu như: Tre Việt Nam, Ánh trăng, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Đò Lèn, Sông Thao… Ông đặc biệt thành công với thể thơ lục bát – thể thơ thân thuộc nhưng đòi hỏi độ tinh tế cao để viết hay. Năm 2007, ông được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật. Thơ Nguyễn Duy luôn hướng đến vẻ đẹp đời thường, khơi gợi giá trị bền vững trong thế giới gần gũi xung quanh.
2. Bài thơ Đò Lèn:
Sáng tác tháng 9/1983, lấy bối cảnh quê ngoại Đò Lèn, bài thơ gồm hai phần: năm khổ đầu gợi lại tuổi thơ nghịch ngợm, vô tâm của người cháu bên cạnh người bà tảo tần; khổ cuối là tiếng lòng day dứt, tỉnh thức muộn màng khi bà đã khuất.
B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI
Câu 1: Cái tôi tuổi thơ của tác giả hiện lên ngây thơ, nghịch ngợm với những trò trẻ con như câu cá, hái trộm nhãn, theo bà đi chợ... Đồng thời là niềm đắm say trước không khí lễ hội, mùi hương trầm, tiếng hát văn. Nhưng sâu xa hơn là hình ảnh người bà lam lũ, gánh chè, bán trứng, trải qua bom đạn, đói nghèo để nuôi cháu. Nét độc đáo là sự trung thực đến sinh động trong việc tái hiện cả những lỗi lầm ngây dại, thể hiện cái nhìn thấu hiểu và cảm thông với chính mình thuở nhỏ.
Câu 2: Người bà hiện lên với tất cả vất vả, hy sinh và tình yêu thương vô bờ. Bà mò cua, gánh chè, bán trứng, nhường củ dong cho cháu giữa những ngày đói khát. Khi tác giả trưởng thành, ông mới thấm thía tình yêu bao la ấy, nhưng đã quá muộn. Hai câu thơ cuối "Khi tôi biết thương bà thì đã muộn / Bà chỉ còn một nấm cỏ thôi" như tiếng nấc nghẹn ngào của người cháu mang nỗi đau muộn màng không gì xoa dịu.
Câu 3: Nếu Bằng Việt trong "Bếp lửa" khắc họa tình bà cháu qua những hình ảnh biểu tượng như ngọn lửa, tiếng tu hú, thì Nguyễn Duy chọn cách đối chiếu, so sánh để làm bật lên nỗi ân hận và tình cảm sâu nặng. Ông dựng nên những cặp tương phản: cháu vô tư - bà tần tảo; đời sống cơ cực - tình yêu thương; thần thánh hư ảo - bà lam lũ đời thường... Những dòng thơ đầy chiêm nghiệm, thấm đẫm ăn năn, là lời tạ lỗi muộn màng và cũng là khúc ca tri ân dành cho người bà đã khuất.

2. Bài soạn "Đò Lèn" của Nguyễn Duy - Phiên bản số 5
Tìm hiểu chung tác phẩm
Tác giả:
Nguyễn Duy, sinh năm 1948 tại Thanh Hoá, là một trong những tiếng thơ tiêu biểu thời kỳ hậu chiến. Thơ ông là sự giao thoa giữa nét mềm mại, tình tứ với chiều sâu của hiện thực đời sống. Chất dân gian đằm thắm hòa quyện cùng tinh thần công dân mạnh mẽ tạo nên bản sắc riêng biệt cho thơ Nguyễn Duy. Một số tập thơ nổi bật: Cát trắng (1973), Ánh trăng (1984), Mẹ và em (1987), Bụi (1997).
Tác phẩm:
"Đò Lèn" được sáng tác năm 1983 trong chuyến trở về quê hương, nơi chất chứa bao kỉ niệm tuổi thơ. Bài thơ được in trong tập "Ánh trăng".
Bố cục:
Phần 1 (5 khổ đầu): Hồi ức tuổi thơ với hình ảnh người bà lam lũ bên cạnh một đứa cháu vô tâm.
Phần 2 (khổ cuối): Sự thức tỉnh và hối hận muộn màng trước sự ra đi của bà, gợi nên nỗi xót xa vô tận.
Câu 1: Tái hiện cái tôi tuổi thơ như thế nào? Điều gì quen thuộc và mới mẻ?
Trả lời:
Tuổi thơ hiện về vừa ngây ngô, vừa tội nghiệp giữa những tháng ngày đói nghèo. Hình ảnh đứa trẻ ham chơi, say mê những điều huyễn hoặc (đền Cây Thị, chùa Trần...) đậm chất dân gian, nhưng vẫn hiện thực, gần gũi. Nguyễn Duy không né tránh những trò nghịch ngợm thời bé – kể cả khi ăn trộm nhãn – điều tạo nên nét riêng đầy chân thật và đáng yêu.
Câu 2: Tình cảm của tác giả với bà thể hiện ra sao?
Trả lời:
Bà hiện lên trong thơ bằng tất cả sự tận tụy: mò cua xúc tép, gánh chè đêm lạnh, bán trứng giữa bom đạn, chia từng miếng dong riềng trong cơn đói khát. Một đời lam lũ nuôi cháu với tình yêu không lời. Đến khi tác giả nhận ra lòng mình biết thương thì bà đã trở thành nấm cỏ xanh, để lại tiếng nấc nghẹn ngào: "Khi tôi biết thương bà thì đã muộn" – câu thơ như lưỡi dao chạm vào tận đáy lòng người đọc.
Câu 3: Cách thể hiện tình bà có gì đặc biệt? So sánh với "Bếp lửa" của Bằng Việt.
Trả lời:
Bằng Việt dùng bếp lửa ấm áp để gợi tình bà cháu. Nguyễn Duy đi xa hơn – ông để bà đối lập với thần thánh, để thấy sự phi thường của một người phụ nữ bình thường. Những phép đối, so sánh (giữa thần – bà, nghèo – yêu thương, cháu vô tư – bà tảo tần) khiến thơ ông không chỉ xúc động mà còn đầy suy tư. Tình bà – một ngọn lửa thiêng – chỉ bừng cháy khi đã khuất xa, để cháu mãi đau đáu ân hận trong từng câu chữ.

3. Bài soạn "Đò Lèn" của Nguyễn Duy - Phiên bản số 6
Câu 1 – SGK Ngữ văn 12, trang 149:
Cái tôi thời thơ ấu của tác giả hiện lên sống động qua từng vần thơ – là cậu bé hồn nhiên, nghịch ngợm, đầy háo hức với thế giới xung quanh:
Say sưa với những trò trẻ thơ như bắt chim, trộm nhãn, đi chợ với bà, câu cá ven sông.
Say mê thế giới tâm linh với đền Cây Thị, lễ hội đền Sòng, hương hoa huệ trắng, khói trầm bảng lảng, bóng cô đồng mê mị trong điệu hát văn.
Nét quen thuộc: Vẫn là sự trìu mến với ký ức tuổi thơ, sự gắn bó sâu sắc với quê hương và hình bóng bà.
Nét mới mẻ: Cái nhìn tự chiêm nghiệm, soi rọi quá khứ với nỗi hối tiếc vì từng thờ ơ, vô tâm khi bà còn sống.
Câu 2 – SGK Ngữ văn 12, trang 149:
Tình cảm dành cho bà được tái hiện sâu sắc qua những hình ảnh cụ thể, giàu xúc cảm:
Bà hiện lên giữa chiến tranh dữ dội – gồng gánh, bươn chải mưu sinh, nuôi nấng đứa cháu thơ dại. Những hình ảnh thân thương: gánh chè xanh, mò cua xúc tép, đêm lạnh thập thững về khuya, bán trứng ở ga Lèn…
Tuổi thơ của cháu hoà vào từng nếp váy của bà, nơi chợ Bình Lâm, trong cả niềm tin ngây thơ giữa thần, Phật và bà.
Để rồi khi khôn lớn, cái tôi ấy nghẹn ngào nhận ra: “Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế… Khi tôi biết thương bà thì đã muộn – bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi.”
→ Một nỗi xót xa muộn màng như cứa vào lòng người đọc.
Câu 3 – SGK Ngữ văn 12, trang 149:
Điểm đặc biệt trong cách thể hiện tình thương bà:
Nguyễn Duy không ngợi ca từ hiện tại, mà viết từ một quá khứ đã mất, từ sự tiếc nuối, dằn vặt của một người từng vô tư mà chưa từng thấu hiểu người thân yêu nhất.
So sánh với Bằng Việt – trong "Bếp lửa", tình bà là hơi ấm truyền đời, là hình ảnh bền bỉ giữa gian khó.
Trong "Đò Lèn", tình bà là ký ức sống dậy trong ân hận, nơi sự đối lập (giữa thơ bé vô tâm và bà tảo tần) càng khắc hoạ sâu thêm bi kịch muộn màng của một người cháu mãi mãi mang trong mình món nợ yêu thương chưa kịp trả.

4. Bài soạn "Đò Lèn" của Nguyễn Duy - Phiên bản số 1
I. Tác giả
1. Tiểu sử
Nguyễn Duy, tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948 tại Thanh Hóa. Ông từng trực tiếp tham gia chiến đấu tại nhiều chiến trường khốc liệt thời kháng chiến chống Mỹ như Khe Sanh, đường 9 Nam Lào, Quảng Trị.
2. Sự nghiệp văn học
a. Tác phẩm tiêu biểu:
• Thơ: Cát trắng (1973), Ánh trăng (1984), Đãi cát tìm vàng (1987), Mẹ và em (1987)...
• Tiểu thuyết: Khoảng cách (1986)...
• Bút ký: Nhìn ra bể rộng trời cao (1986)...
b. Phong cách nghệ thuật:
Thơ ông giàu chất thế sự, kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp trữ tình duyên dáng và chiều sâu suy tưởng. Ông đặc biệt thành công trong việc cách tân thể thơ lục bát theo hướng hiện đại.
II. Tác phẩm “Đò Lèn”
1. Xuất xứ
Bài thơ ra đời năm 1983, sau khi nhà thơ trở về quê, sống lại với những ký ức buồn vui đan xen của thời thơ ấu.
2. Bố cục:
- Phần 1 (5 khổ thơ đầu): Hồi tưởng về hình ảnh người bà lam lũ, tảo tần.
- Phần 2 (còn lại): Nỗi thức tỉnh và ân hận muộn màng của người cháu.
3. Giá trị nội dung:
• Bài thơ là bản hòa ca đầy cảm xúc về ký ức tuổi thơ và hình ảnh người bà tảo tần.
• Gợi lại nỗi day dứt của một đứa cháu từng vô tư sống trong ảo mộng, không thấu hiểu nỗi nhọc nhằn của bà.
4. Giá trị nghệ thuật:
• Thơ kết hợp nhuần nhuyễn tính dân gian với phong vị cổ điển.
• Hình ảnh thơ mộc mạc, gần gũi, mang nét dân dã mà sâu lắng.
Câu 1: Ký ức tuổi thơ hiện lên sinh động và chân thực, trong đó cái tôi tuổi nhỏ của tác giả được thể hiện qua hình ảnh một đứa trẻ hồn nhiên, vô tư giữa đói nghèo, chiến tranh: câu cá ở cống Na, bắt chim sẻ, trộm nhãn chùa Trần, say mê khói hương, hoa huệ và điệu hát văn đền Sòng. Những kỷ niệm chân thành, có cả đẹp đẽ lẫn thô mộc – thể hiện sự thẳng thắn, chân thực của người nghệ sĩ khi nhìn về quá khứ.
Câu 2: Người bà hiện lên đầy cảm thương: gánh chè đêm giá, mò cua xúc tép, bán trứng ga Lèn dưới bom Mỹ. Những hình ảnh ấy gợi nên tình yêu thương lớn lao và sự ân hận sâu sắc khi người cháu nhận ra nỗi vất vả ấy quá muộn: “Khi tôi biết thương bà thì đã muộn / Bà chỉ còn một nấm cỏ thôi.”
Câu 3: Nếu Bằng Việt thể hiện tình bà cháu qua biểu tượng bếp lửa ấm nồng ký ức, thì Nguyễn Duy thể hiện tình cảm ấy một cách trực diện, tự vấn bản thân qua lời thơ thành thật, sắc lạnh của ăn năn. Cả hai cùng viết về bà – nhưng một người nghiêng về niềm biết ơn, người còn lại nghiêng về nỗi dằn vặt muộn màng.

5. Bài soạn "Đò Lèn" của Nguyễn Duy - Phiên bản số 2
I. Tác giả & Tác phẩm
1. Tác giả
Nguyễn Duy, tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948 tại Thanh Hóa. Là một gương mặt tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam, ông khẳng định vị thế bằng giọng thơ kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trữ tình duyên dáng với chiều sâu thế sự. Thơ ông khẳng khái, thẳng thắn nhưng vẫn trầm lắng, giàu trải nghiệm và mang tinh thần công dân sâu sắc. Đặc biệt, Nguyễn Duy đã làm mới thể lục bát truyền thống bằng cảm hứng hiện đại, tạo nên sức hấp dẫn riêng biệt trong thi pháp và hình ảnh.
2. Tác phẩm
“Đò Lèn” được viết vào năm 1983, nhân dịp nhà thơ trở về quê hương và sống lại trong những hoài niệm sâu lắng, đan xen giữa vui buồn thời thơ ấu, với hình ảnh bà ngoại là trung tâm cảm xúc.
II. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1:
Hình ảnh cậu bé trong thơ Nguyễn Duy hiện lên sống động qua ký ức tuổi thơ nghịch ngợm, vô tư nơi quê nhà: mùi hương trầm, huệ trắng, bóng dáng cô đồng, những điệu hát văn đầy mê hoặc. Cái tôi trẻ thơ ấy hòa mình vào không gian làng quê dân dã, hồn nhiên đón nhận mọi điều như lẽ thường, chưa hề nhận biết mặt sau của cuộc sống. Chính lối kể chân chất, như lời tâm sự đời thường, đã khiến những ký ức ấy trở nên gần gũi và ám ảnh.
Tác giả cũng thể hiện góc nhìn mới mẻ khi tái hiện bản thân thời thơ ấu – một cái nhìn giàu chiêm nghiệm, soi rọi lại những năm tháng đã qua bằng ánh sáng của trưởng thành và thấu hiểu, đặc biệt là khi nghĩ về người bà.
Câu 2:
Tình thương với bà hiện lên chân thành, sâu sắc qua từng hình ảnh: bà mò cua, xúc tép, gánh chè xanh Ba Trại, lặng lẽ buôn bán trong những ngày khốn khó. Tác giả từng vô tâm, sống trong thế giới tưởng tượng huyền ảo, không nhận ra thực tại nhọc nhằn của bà. Khi trưởng thành, với trải nghiệm của người lính trở về từ chiến tranh, ông mới thấm thía và đau xót trước sự lặng thầm ấy:
"khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi"
Đó là giây phút thức tỉnh của người cháu – nơi mà yêu thương hòa cùng day dứt thành một vết thương đẹp.
Câu 3:
Qua hình tượng người bà, Nguyễn Duy không chỉ bày tỏ tình yêu thương cá nhân mà còn khắc họa một chân dung dân tộc – những con người lam lũ, kiên cường qua bão giông lịch sử. Nếu trong “Bếp lửa” của Bằng Việt, người bà là điểm tựa tinh thần nơi hậu phương, truyền lửa yêu thương và niềm tin kháng chiến, thì ở “Đò Lèn”, bà là hiện thân của chịu đựng và hi sinh, sống âm thầm giữa hiện thực chiến tranh nhưng vẫn tảo tần và giàu phẩm giá. Hai hình ảnh ấy, dù khác biệt trong biểu đạt, đều hội tụ trong một điểm chung: lòng biết ơn sâu nặng và sự thấu hiểu muộn màng.

6. Bài soạn "Đò Lèn" của Nguyễn Duy - Phiên bản số 3
Khám phá tác giả và tác phẩm "Đò Lèn"
I. Nguyễn Duy – Nhà thơ của thế sự và tình thân
- Nguyễn Duy, tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948 tại xã Đông Vệ, thị xã Thanh Hóa (nay là TP Thanh Hóa).
- Mồ côi mẹ từ nhỏ, ông lớn lên trong vòng tay tảo tần của bà ngoại.
- Từng nhập ngũ năm 1966, học văn tại Đại học Tổng hợp Hà Nội (1971–1975), và sau 1975, chuyển vào sống tại TP.HCM, gắn bó với báo Văn nghệ.
- Thơ ông là sự hòa quyện giữa cái đẹp trữ tình và chiều sâu thế sự. Giọng thơ ngang tàng nhưng đầy chiêm nghiệm, thể hiện trách nhiệm công dân.
- Nguyễn Duy là người làm mới thể lục bát bằng tư duy hiện đại, đóng góp đáng kể cho thơ ca Việt Nam hiện đại.
- Tác phẩm nổi bật: Cát trắng (1973), Ánh trăng (1984), Đãi cát tìm vàng (1987), Mẹ và em (1987)...
- Năm 2007, ông được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật.
II. Bài thơ “Đò Lèn” – Tiếng vọng từ miền ký ức
- Hoàn cảnh sáng tác: Viết năm 1983, khi nhà thơ trở lại quê hương, sống lại những hồi ức ngập tràn buồn vui, đau đáu tình thân.
- Nội dung chính: Qua dòng hồi tưởng về tuổi thơ gắn bó với bà ngoại nơi quê nghèo Đò Lèn, bài thơ khắc họa sâu sắc cảnh đời lam lũ, ám ảnh chiến tranh và hơn hết là lòng tri ân muộn màng của đứa cháu mồ côi dành cho người bà tảo tần.
- Phương thức biểu đạt: Chủ yếu là biểu cảm, đan xen yếu tố tự sự và miêu tả, tạo nên âm hưởng gần gũi, xúc động.
- Ý nghĩa nhan đề: “Đò Lèn” – tên một địa danh, nhưng gói trọn cả tuổi thơ, nơi bà sống, bà mất, và cũng là nơi tâm hồn nhà thơ neo đậu những ân tình chưa trọn. Một địa danh hóa thành biểu tượng của ký ức, ân hận và yêu thương khôn nguôi.
Gợi ý trả lời câu hỏi đọc hiểu (SGK Ngữ văn 12, tr.149)
Bài 1: Cái tôi thời thơ ấu và cách nhìn của tác giả về quá khứ
- Hình ảnh thời nhỏ: Cậu bé mồ côi, hồn nhiên, vô tư, mê thế giới thần linh; nghịch ngợm và say mê khám phá như bao trẻ em miền quê: câu cá, bắt sẻ, ăn trộm nhãn chùa Trần...
- Nét quen: Những mảnh ký ức thân thuộc, gần gũi và chân thực.
- Nét mới: Dũng cảm nói ra cả những điều “không đẹp”, thậm chí “nên giấu” – một dấu ấn của tinh thần văn học đổi mới hậu chiến, đi vào chiều sâu nhân bản.
Bài 2: Tình thương dành cho người bà
- Người bà hiện lên với vóc dáng nhỏ bé, chịu thương chịu khó, lặn lội giữa thời bom đạn nuôi cháu bằng tất cả tình yêu và sức lực: gánh chè, mò cua, bán trứng ga Lèn...
- Khi trưởng thành, nhà thơ hồi tưởng lại với nỗi xót xa, ân hận: giờ đây chỉ còn nấm cỏ xanh nơi bà yên nghỉ, để thương thì đã muộn màng.
Bài 3: So sánh tình cảm bà cháu trong “Đò Lèn” và “Bếp lửa”
- Trong Bếp lửa (Bằng Việt): Tình bà cháu được ẩn dụ qua ngọn lửa yêu thương và niềm tin thầm lặng, với giọng điệu ấm áp, thiêng liêng.
- Trong Đò Lèn: Nguyễn Duy không giấu đi cảm xúc thật. Lời thơ như lời thú nhận, là tiếng nấc dằn vặt trong nỗi muộn màng. Không cần biểu tượng, chỉ cần sự thật trần trụi cũng đủ lay động người đọc: "Khi tôi biết thương bà thì đã muộn / Bà chỉ còn là một nắm cỏ thôi".

Có thể bạn quan tâm

Top 6 Công ty sản xuất thùng carton, hộp giấy carton uy tín tại Hà Nội

Những lời chúc Tết, mừng năm mới 2019 ý nghĩa và sâu sắc nhất

Cách nhận diện sữa đậu nành nguyên chất và sữa chứa hóa chất độc hại

Top 10 công thức làm đẹp giúp vòng eo thon gọn với chanh

Những lời chúc 8/3 dành tặng cô giáo - ý nghĩa sâu sắc và đong đầy cảm xúc
