Tuyển tập 10 bài phân tích sâu sắc và ấn tượng nhất về tác phẩm "Nhàn" của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nội dung bài viết
4. Phân tích chuyên sâu bài thơ "Nhàn" - Phiên bản đặc biệt
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) - bậc đại trí tuệ với học vấn uyên thâm, được tôn xưng là Tuyết Giang Phu Tử bởi những học trò xuất chúng. Cuộc đời ông là bản hùng ca về khí tiết khi dám dâng sớ xin chém mười tám lộng thần, rồi chọn lối sống ẩn dật khi hoài bão cứu đời không thành. Ông để lại hai kiệt tác: Bạch Vân am thi tập (chữ Hán) và Bạch Vân quốc ngữ thi (chữ Nôm), trong đó bài "Nhàn" là viên ngọc sáng thể hiện triết lý sống thanh cao.
Thơ ông như dòng suối mát lành chảy từ trí tuệ uyên bác, vừa giáo huấn đạo lý vừa ngợi ca chí khí kẻ sĩ, phê phán xã hội đương thời. "Nhàn" được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, vẽ nên bức tranh đời sống an nhiên tự tại:
"Một mai, một cuốc, một cần câu/ Thơ thẩn dầu ai vui thú nào..."
Hai câu mở đầu khắc họa hình ảnh ẩn sĩ với phong thái thư thái, dùng điệp từ "một" gợi sự giản dị mà thanh nhã. Cái "thơ thẩn" ấy là tư thế ung dung của người đã thoát khỏi vòng cương tỏa danh lợi.
"Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn người đến chốn lao xao"
Nghệ thuật đối lập tài tình giữa "dại" - "khôn", "vắng vẻ" - "lao xao" thể hiện quan niệm sống đặc biệt: coi sự xa lánh quyền quý là minh triết chứ không phải lẩn tránh trách nhiệm.
Bức tranh tứ thời hiện lên sinh động: "Thu ăn măng trúc đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao", cho thấy sự hòa điệu với tự nhiên và triết lý "thuận thiên" sâu sắc.
Hai câu kết "Rượu đến cội cây ta sẽ uống/ Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao" chất chứa trí tuệ siêu việt, vận dụng điển tích Thuần Vu một cách tinh tế để khẳng định giá trị đích thực của đời người không nằm ở vinh hoa phù phiếm.
Qua "Nhàn", Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nâng nghệ thuật thơ Nôm lên tầm triết luận sâu sắc. Bài thơ như đóa sen vươn lên từ bùn đất thời đại, tỏa hương thơm ngát của nhân cách cao khiết, vẫn còn nguyên vẹn giá trị nhân văn cho hậu thế.


5. Khám phá chiều sâu triết lý trong bài thơ "Nhàn" - Phân tích chuyên sâu
Trong thế giới thi ca, "Nhàn" của Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên như một bản tình ca về triết lý sống, nơi mỗi câu thơ đều thấm đẫm trải nghiệm của bậc đại trí giữa thời loạn. Bài thơ không chỉ là lựa chọn an nhiên tự tại mà còn là tuyên ngôn sống vượt thời gian, khi tác giả chủ động rời xa "chốn lao xao" để giữ trọn khí tiết thanh cao.
Hai câu khai đề vẽ nên bức tranh điền viên đầy thi vị: "Một mai, một cuốc, một cần câu/ Thơ thẩn dầu ai vui thú nào". Điệp từ "một" cùng nhịp thơ khoan thai gợi lối sống giản dị mà không kém phần thanh nhã. Cái "thơ thẩn" ấy chính là phong thái ung dung của người đã thấu hiểu lẽ đời.
Nghệ thuật đối lập tài tình trong hai câu thực "Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn người đến chốn lao xao" đã phơi bày quan niệm sống đậm chất minh triết. Chữ "dại" ở đây hàm chứa sự mỉa mai sâu sắc với thói đời bon chen, đồng thời khẳng định lựa chọn có ý thức của kẻ sĩ.
Bức tranh tứ thời "Thu ăn măng trúc đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao" không chỉ thể hiện sự hòa điệu với tự nhiên mà còn là biểu tượng cho triết lý "thuận thiên" - sống theo quy luật đất trời. Những sản vật dân dã trở thành minh chứng cho đời sống tinh thần phong phú.
Hai câu kết "Rượu đến cội cây ta sẽ uống/ Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao" vận dụng điển tích Thuần Vu một cách tinh tế, biến bài thơ thành áng văn chương bất hủ về giá trị đích thực của đời người. Qua đó, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nâng thơ Nôm lên tầm triết luận sâu sắc.
"Nhàn" không đơn thuần là lối sống ẩn dật mà là sự lựa chọn có ý thức của bậc trí giả, là bài học về giữ gìn nhân cách giữa xã hội nhiễu nhương. Đó chính là sức sống trường tồn khiến tác phẩm vẫn nguyên vẹn giá trị qua năm tháng.


6. Khám phá tầng sâu triết lý nhân sinh trong "Nhàn" - Luận giải chuyên sâu
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585), bậc đại nho thời Lê-Mạc, đã sống qua một thế kỷ đầy biến động với những xung đột triền miên giữa các thế lực phong kiến. Trong cơn bão loạn ấy, ông hiện lên như một trí thức kiên định, vừa phanh phui những thế lực đen tối chà đạp lên đời sống dân lành, vừa bảo vệ những giá trị đạo đức truyền thống qua những vần thơ thấm đẫm triết lý nhân sinh.
Bài thơ "Nhàn" của ông là tuyên ngôn sống của một ẩn sĩ, một lối thoát khỏi vòng xoáy danh lợi tầm thường. Quan niệm sống ấy không chỉ bắt nguồn từ đạo lý Nho gia mà còn hòa quyện với triết lý dân gian, tạo nên một nhân sinh quan lành mạnh giữa thời cuộc điên đảo.
Hành trình tìm về với "nhàn" của Nguyễn Bỉnh Khiêm là hành trình trở về với nhân dân, đối lập với lối sống thực dụng bằng ngôn ngữ thơ vừa ngông nghênh vừa sâu sắc:
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dù ai vui thú nào
Hình ảnh người ẩn sĩ hiện lên thật giản dị mà sâu sắc - một nho sĩ khoác áo nông dân, tìm thú vui trong cuộc sống "ngư, tiều, canh, mục" như một sự phản kháng với lối sống bon chen.
Đằng sau vẻ ngoài "thơ thẩn" ấy là cả một thái độ sống ung dung, tự tại. Những vật dụng lao động bình dị trở thành biểu tượng cho cuộc sống không vướng bụi trần.
Triết lý sống của ông được thể hiện rõ qua cách đối lập đầy ẩn ý:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người kiếm chốn lao xao
Phép đối tài tình đã vạch ra ranh giới giữa hai thế giới quan: một bên là sự "dại khôn" đầy mỉa mai của kẻ sĩ, một bên là sự "khôn dại" của thế gian. Không phải là lời than thở u uất như Khuất Nguyên xưa, mà là nụ cười tỉnh táo của bậc chính nhân trước thói đời đen bạc.
Cuộc sống ẩn dật của ông hòa hợp với nhịp tuần hoàn của tự nhiên:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Mỗi mùa mang đến những ưu đãi riêng, mỗi thứ quà quê đều thấm đẫm triết lý sống thanh cao. Đó không phải là lối sống tiêu cực mà là sự lựa chọn có ý thức để giữ gìn nhân cách trước cơn lốc danh lợi.
Kết thúc bài thơ là thái độ dứt khoát với phù hoa:
Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao
Điển tích được vận dụng tự nhiên như lời tuyên bố đoạn tuyệt với vòng xoáy công danh. Trong bối cảnh xã hội suy vi đương thời, quan niệm này mang ý nghĩa tích cực - một sự phản kháng bằng cách giữ mình trong sạch.
"Nhàn" không chỉ là bài thơ hay mà còn là bản tuyên ngôn sống của một nhân cách lớn, kết tinh trí tuệ và bản lĩnh Nguyễn Bỉnh Khiêm - người đã chọn sống gần dân để giữ trọn đạo làm người giữa thời loạn.


4. Luận văn phân tích tác phẩm "Nhàn" - Phiên bản nâng cao
Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu đến cội cây ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
Bài thơ Nôm Đường luật này thể hiện tinh thần Việt hóa đặc sắc, phá vỡ quy phạm ước lệ của thơ Đường bằng những hình ảnh dân dã: mai, cuốc, cần câu. Đây chính là nghệ thuật "dân gian hóa" thi pháp Nho gia, biến thơ thành tấm gương phản chiếu đời sống bình dị.
Triết lý "dại - khôn" trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm là sự đảo ngược giá trị đầy minh triết:
- Dại khôn đích thực: Chọn nơi vắng vẻ là trở về với bản nguyên thuần khiết
- Khôn dại ảo tưởng: Đuổi theo chốn lao xao là đánh mất nhân tính
Bức tranh tứ bình bốn mùa (thu măng trúc, đông giá sống, xuân hồ sen, hạ ao tắm) phác họa nhịp sống hòa điệu với tự nhiên, thể hiện tinh thần "vô vi" mà không thoát ly.
"Nhàn" của Trạng Trình là sự tổng hòa tam giáo (Nho - Lão - Phật), vừa giữ được khí tiết nho sĩ, vừa đạt tới tự tại của đạo sĩ, lại thấm đẫm tinh thần vô thường nhà Phật. Đó không phải lối sống tiêu cực mà là biện pháp tích cực để bảo toàn nhân phẩm giữa thời loạn.


5. Khảo cứu chuyên sâu tác phẩm "Nhàn" - Phiên bản đặc biệt
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao
Triết lý Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không đơn thuần là lối sống ẩn dật mà là cả một hệ tư tưởng nhân sinh sâu sắc. Cái nhàn ấy là:
- Nhàn thân: Thoát khỏi vòng danh lợi
- Nhàn tâm: Giữ tâm hồn thanh thản
- Nhàn đạo: Sống thuận tự nhiên
Bài thơ mở đầu bằng điệp khúc "một" gợi sự đơn sơ, giản dị của cuộc sống ẩn sĩ. Nhưng đằng sau ba chữ "một" ấy là cả một thế giới quan: một đời người, một lối sống, một nhân cách.
Đối lập giữa "dại" và "khôn" chính là sự đảo ngược giá trị đầy minh triết:
Dại thực | Khôn ảo |
---|---|
Nơi vắng vẻ - trở về bản nguyên | Chốn lao xao - đánh mất nhân tính |
Sống thuận tự nhiên | Đuổi theo phù hoa |
Bức tranh tứ bình bốn mùa (thu măng trúc, đông giá sống, xuân hồ sen, hạ ao tắm) là biểu tượng cho nhịp sống hòa điệu với thiên nhiên, thể hiện tinh thần "vô vi mà vô bất vi" của Lão Trang.
Bài thơ khép lại bằng triết lý "phú quý tựa chiêm bao", một quan niệm sống vừa thấm đẫm tinh thần Phật giáo (vô thường), vừa mang khí phách Nho gia (khí tiết), lại phảng phất cái ung dung của Đạo gia. Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là phương châm sống để bảo toàn nhân phẩm giữa thời loạn, không phải sự thoát ly mà là cách ứng xử đầy trách nhiệm với thời cuộc.


Tranh minh họa từ nguồn tư liệu mở
Luận văn số 9: Phân tích tác phẩm "Nhàn" của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm - bậc đại Nho tài hoa thời Lê-Mạc, mang trong mình hoài bão phụng sự đất nước nhưng sinh bất phùng thời. Tám năm bút nghiên nơi triều chính rồi lui về ẩn dật, để lại cho hậu thế kiệt tác "Nhàn" trong tập Bạch Vân quốc ngữ thi - bản tuyên ngôn sống đầy minh triết của kẻ sĩ giữa thời loạn.
"Nhàn" không đơn thuần là trốn đời mà là thái độ sống ung dung tự tại của nho sĩ thức thời. Giữa xã hội nhiễu nhương khi mười tám lần can gián bất thành, lựa chọn ẩn cư của Trạng Trình là cách giữ trọn khí tiết, một sự phản kháng ôn hòa mà sâu sắc.
Hai câu đề vẽ nên bức tranh điền viên thanh bần:
"Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào"
Điệp từ "một" cùng nhịp thơ 2/2/3 như bước chân khoan thai của ẩn sĩ. Những vật dụng lao động giản dị (mai, cuốc) trở thành biểu tượng cho sự giải thoát khỏi vòng danh lợi.
Triết lý "dại - khôn" được thể hiện đầy nghịch lý:
"Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao"
Nơi vắng vẻ là chốn thiên nhiên thuần khiết - nơi gột rửa tâm hồn. Chốn lao xao đại diện cho quan trường đầy thị phi. Cái nhìn sắc sảo ấy còn thể hiện ở câu thơ khác:
"Khôn mà hiểm độc là khôn dại
Dại vốn hiền lành ấy dại khôn"
Bức tranh tứ bình hiện lên qua nhịp sống hòa hợp với tự nhiên:
"Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao"
Động từ "ăn", "tắm" được lặp lại nhấn mạnh lối sống giản dị, thuận theo tự nhiên. Mùa nào thức nấy, sống theo quy luật đất trời mà không bon chen, vướng bận.
Hai câu kết chứa đựng triết lý sâu xa:
"Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao"
Mượn điển tích Thuần Vu Phần, Nguyễn Bỉnh Khiêm khẳng định công danh chỉ là giấc mộng phù du. Cái nhìn thông tuệ ấy xuất phát từ sự thấu hiểu quy luật nhân sinh.
Tác phẩm là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa thi pháp Đường luật và chất liệu dân gian. Hình ảnh bình dị (mai, cuốc) đặt bên cạnh điển tích uyên bác, tạo nên phong cách độc đáo "Nôm mà Đường, Đường mà Nôm".
"Nhàn" không chỉ là bài thơ mà còn là tuyên ngôn nhân sinh của bậc đại trí. Ẩn sau lối sống điền viên là trái tim nặng lòng với thế sự, một cách ứng xử văn hóa đầy trách nhiệm của kẻ sĩ chân chính.


Hình ảnh tham khảo từ kho tư liệu mở
Luận văn chuyên sâu: Phân tích tác phẩm "Nhàn" (Bài phân tích số 10)
Bài "Nhàn" trong tập Bạch Vân quốc ngữ thi dù nhan đề do hậu thế đặt nhưng vẫn lột tả trọn vẹn tư tưởng tác giả. Chữ "Nhàn" ở đây không đơn thuần là nhàn hạ mà là cả một triết lý ứng xử, một cách sống đầy tự chủ.
Nhà sử học Phan Huy Chú từng nhận xét: "Văn chương Trạng Trình tự nhiên như mây trôi nước chảy, giản dị mà sâu sắc, không trau chuốt mà đầy ý vị giáo huấn". Bài thơ Nôm số 73 này chính là viên ngọc quý thể hiện tâm hồn thanh cao của bậc "tiên ông giữa cõi trần".
"Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu đến cội cây ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao."
Nhịp thơ biến hóa như bước chân thong dong của ẩn sĩ. Ba vật dụng bình dị (mai, cuốc, cần câu) trở thành biểu tượng cho sự giải thoát khỏi vòng danh lợi. Điệp từ "một" nhấn mạnh lối sống đơn sơ mà đầy đủ, không tham lam bon chen.
Triết lý "dại - khôn" được thể hiện đầy nghịch lý: "Nơi vắng vẻ" là chốn thiên nhiên thanh khiết, nơi gột rửa tâm hồn; "chốn lao xao" là nơi quyền lực tranh đoạt, đồng tiền ngự trị. Cái nhìn sắc sảo ấy còn thể hiện qua câu thơ khác: "Khôn mà hiểm độc là khôn dại/Dại vốn hiền lành ấy dại khôn".
Bức tranh tứ bình bốn mùa hiện lên qua lối sống hòa hợp với tự nhiên: "Thu ăn măng trúc, đông ăn giá/Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao". Đó là triết lý sống thuận theo lẽ tự nhiên, không cưỡng cầu, không phụ thuộc.
Hai câu kết chứa đựng triết lý sâu xa: "Rượu đến cội cây ta sẽ uống/Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao". Không phải ngẫu nhiên mà rượu được đặt lên đầu câu - đó là thái độ sống ung dung tự tại, coi công danh chỉ là giấc mộng phù du.
"Nhàn" không chỉ là bài thơ mà là cả một tuyên ngôn sống. Hình ảnh Tuyết Giang phu tử hiện lên qua từng câu chữ khiến hậu thế vừa kính phục vừa ngưỡng mộ. Điều đáng nói là để đạt được cái "nhàn" thanh cao ấy, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã phải trải qua ba lần đỗ đầu thi Hội, đạt tới đỉnh cao danh vọng rồi mới giác ngộ.
Bài thơ giúp ta hiểu thêm vẻ đẹp nhân cách của bậc đại trí: sống thanh cao mà không xa rời thực tế, coi thường danh lợi nhưng không quay lưng với đời. Đó chính là bài học về lối sống cân bằng giữa con người với tự nhiên và xã hội.


Tranh minh họa từ nguồn tư liệu mở
Phân tích chuyên sâu: Tác phẩm "Nhàn" (Bài phân tích số 1)
Bài thơ "Nhàn" viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, là bức tranh tâm hồn của một ẩn sĩ sống hòa hợp với thiên nhiên. Hai câu đề mở ra khung cảnh điền viên:
"Một mai một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào"
Điệp từ "một" cùng hình ảnh giản dị (mai, cuốc) vẽ nên cuộc sống thanh bần mà đầy đủ. Từ "thơ thẩn" diễn tả tâm thế ung dung hiếm có, bất chấp những thú vui phù phiếm ngoài kia.
Hai câu thực là tuyên ngôn sống đầy nghịch lý:
"Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao"
Nghệ thuật đối lập "dại" - "khôn", "vắng vẻ" - "lao xao" thể hiện sự lựa chọn có ý thức của bậc thức giả. Cái "dại" ở đây chính là trí tuệ thấu hiểu lẽ đời.
Hai câu luận vẽ nên bức tranh tứ bình bốn mùa:
"Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao"
Cuộc sống thuận theo tự nhiên, mùa nào thức nấy, thể hiện triết lý "tri túc" của bậc hiền nhân.
Hai câu kết chứa đựng triết lý sâu xa:
"Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao"
Hình ảnh "rượu dưới gốc cây" và quan niệm coi phú quý như giấc mộng cho thấy tầm nhìn siêu việt của bậc đại trí.
Bài thơ "Nhàn" với ngôn ngữ giản dị mà sâu sắc đã khắc họa chân dung tinh thần Nguyễn Bỉnh Khiêm - một nhân cách lớn biết vượt lên trên những giá trị phù phiếm để tìm đến sự thanh cao đích thực. Tác phẩm mãi mãi là bài học quý về lối sống cân bằng giữa con người và tự nhiên.


Tranh minh họa cuộc sống ẩn dật của nho sĩ
Phân tích chuyên sâu: Tác phẩm "Nhàn" (Bài phân tích số 2)
Bài thơ "Nhàn" là tuyên ngôn sống của bậc đại trí, thể hiện quan niệm sống hòa hợp với tự nhiên, giữ cốt cách thanh cao vượt lên vòng danh lợi tầm thường. Hai câu mở đầu vẽ nên bức tranh điền viên:
"Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào"
Điệp từ "một" cùng hình ảnh giản dị (mai, cuốc) phác họa cuộc sống thanh bần mà đầy đủ. Từ "thơ thẩn" diễn tả tâm thế ung dung hiếm có, bất chấp thú vui phù phiếm đời thường.
Hai câu thực là triết lý sống đầy nghịch lý:
"Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao"
Nghệ thuật đối lập "dại" - "khôn" thể hiện sự lựa chọn có ý thức. Cái "dại" của bậc thức giả chính là trí tuệ thấu hiểu lẽ đời.
Hai câu luận vẽ nên bức tranh tứ bình:
"Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao"
Cuộc sống thuận theo tự nhiên, mùa nào thức nấy, thể hiện triết lý "tri túc" của bậc hiền nhân.
Hai câu kết chứa đựng minh triết:
"Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao"
Hình ảnh "rượu dưới gốc cây" và quan niệm coi phú quý như giấc mộng phản ánh tầm nhìn siêu việt của bậc đại trí.
Bài thơ "Nhàn" không chỉ là lựa chọn cá nhân mà còn là thông điệp nhân sinh sâu sắc. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhàn thân mà không nhàn tâm, luôn canh cánh nỗi niềm dân nước. Tác phẩm mãi là bài học quý về lối sống cân bằng giữa con người và tự nhiên, giữa cá nhân và xã hội.


10. Phân tích sâu sắc tác phẩm "Nhàn" - Bài luận mẫu số 3
Giữa chốn quan trường đầy tham vọng quyền lực, hiếm hoi lắm mới có người tự nguyện rời bỏ mũ áo xênh xang. Nguyễn Bỉnh Khiêm - bậc đại trí thức uyên bác, nhà thơ tài hoa - đã chọn lối sống ẩn dật nơi thôn dã, để lại cho đời bài thơ Nhàn như một tuyên ngôn sống đầy minh triết.
Một chữ Nhàn giản dị mà chứa đựng cả triết lý nhân sinh sâu sắc. Cái nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải sự nhàn hạ tầm thường, mà là sự tự do của tâm hồn khi thoát khỏi vòng danh lợi.
Bài thơ mở đầu bằng bức tranh đồng quê mộc mạc:
"Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào"
Những vật dụng lao động giản dị trở thành biểu tượng cho cuộc sống tự tại. Công việc đồng áng tuy chân tay vất vả nhưng tâm hồn lại thanh thản, khác hẳn sự bon chen nơi triều chính.
Hai câu thơ tiếp theo chứa đựng triết lý sâu xa:
"Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chỗ lao xao"
Cách nói nghịch lý đầy dụng ý: chốn thôn quê tưởng vắng vẻ mà thanh bình, nơi quan trường tưởng sang trọng lại đầy hiểm nguy. Đó là sự lựa chọn có chủ ý của bậc chính nhân quân tử.
Cuộc sống nhàn tản hiện lên sinh động qua bốn mùa:
"Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao"
Lối sống thuận theo tự nhiên ấy chính là cái nhàn của bậc đại trí. Và trong khung cảnh ấy, hình ảnh nhà nho ung dung:
"Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quí, tựa chiêm bao"
Triết lý về sự phú quý như giấc mộng càng khẳng định sự lựa chọn sáng suốt của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ không chỉ vẽ nên chân dung một nhà nho thanh cao mà còn gửi gắm bài học nhân sinh sâu sắc.


Có thể bạn quan tâm

Top 10 Loại Trà Giảm Cân Nhật Bản Được Ưa Chuộng Nhất Hiện Nay

Top 5 cửa hàng bán quần áo secondhand chất lượng tại Quảng Ngãi

Top 8 địa điểm thưởng thức chè tuyệt hảo không thể bỏ qua tại quận Ba Đình, Hà Nội

Cửa hàng Tripi tại 1068 An Dương Vương, Quận 8 sẽ chính thức khai trương vào ngày 7/11/2019

Mẫu kế hoạch công việc chuẩn trong Excel sẽ giúp bạn tổ chức công việc một cách khoa học và logic, từ đó tối ưu hóa hiệu quả công việc. Đây là công cụ hỗ trợ không thể thiếu để bạn sắp xếp công việc một cách rõ ràng và hợp lý.
