10 Bài phân tích ấn tượng nhất về thi phẩm "Lưu biệt khi xuất dương" - Áng thơ bất hủ của chí sĩ Phan Bội Châu
Nội dung bài viết
Phân tích tác phẩm "Lưu biệt khi xuất dương" - Bài mẫu số 4 đặc sắc
"Thi dĩ ngôn chí" - thơ là tiếng lòng tỏ bày chí hướng. Vẻ đẹp của thơ chí phụ thuộc vào tầm vóc của chí khí. Chí không phải là ngọn lửa bồng bột nhất thời, càng không thể là mượn ý người. Chí phải được chứng minh bằng sự nghiệp.
Có những sự nghiệp dang dở, nhưng chính sự chưa trọn ấy lại minh chứng cho chí lớn đã dám dấn thân. Đó mới là nền tảng cho thơ chân chính. Ngược lại, thơ sẽ chỉ còn là lời sáo rỗng, khoa trương nếu thiếu vắng chí lớn - hơn thế, nếu chí ấy không gắn với nhân cách lớn, cuộc đời lớn.
Xưa nay, thơ tỏ chí thường gắn với bậc anh hùng, trượng phu. Thơ họ là tuyên ngôn sống. Trước khi khắc hình mình vào thơ, họ đã khắc hình vào non sông. Đời ví họ như chim hồng hộc, tương phản với lũ sẻ ri nhỏ bé. Và trong thơ, họ hiện lên như đại bàng tung cánh giữa trời biển mênh mông.
Tư thế họ là tư thế vũ trụ: "Hoành sóc giang san" (Phạm Ngũ Lão), "Kỉ độ long tuyền đới nguyệt ma" (Đặng Dung), "Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư" (Không Lộ), hay "Bay thẳng cánh muôn trùng Tiêu Hán" (Nguyễn Hữu Cầu)... Mỗi câu thơ đều thấm đẫm hào khí dân tộc.
"Lưu biệt khi xuất dương" của Phan Bội Châu tiếp nối mạch thơ ấy, thể hiện hùng tâm của bậc anh hùng dân tộc. Quan niệm làm trai trong bài không mới, nhưng điều đặc biệt là cụ Phan đã sống trọn lý tưởng ấy trước khi viết thành thơ. Bài thơ không chỉ chứa tư tưởng mà còn phác họa chân dung con người phi thường.
Hai câu mở đầu khẳng định chí nam nhi phải làm nên điều kỳ vĩ, chứ không để trời đất tự xoay vần. Chữ "kỳ" trong nguyên tác mang sắc thái mạnh hơn chữ "lạ" trong bản dịch - nó ám chỉ những kỳ tích phi thường. Không gian trong thơ không bó hẹp ở cõi người mà mở ra cả vũ trụ bao la.
Hai câu thực tiếp tục khắc họa tầm vóc ấy trong chiều thời gian: "Trong khoảng trăm năm cần có tớ/Sau này muôn thuở há không ai?". Cái tôi cá nhân hiện lên đầy kiêu hãnh, tự nhận sứ mệnh lịch sử của kẻ chuyển xoay thế kỷ.
Hai câu luận là tiếng nói đau đớn trước thời cuộc: "Non sông đã chết sống thêm nhục/Hiền thánh còn đâu học cũng hoài". Bốn chữ "Giang sơn tử hĩ" chất chứa nỗi đau mất nước. Câu thơ khẳng định: thời buổi ấy, chỉ có hành động mới xứng đáng bậc nam nhi.
Kết thúc bài thơ là hình ảnh kỳ vĩ: "Muốn vượt biển Đông theo cánh gió/Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi". Không còn là ước lệ, đây chính là hành trình Đông du thực tế của người anh hùng, quyết đem thân mình đối mặt trùng dương để tìm đường cứu nước. Câu thơ cuối "Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi" chứa đựng trọn vẹn khí phách Phan Bội Châu.
Qua bài thơ, ta thấy quan niệm làm trai của cụ Phan không phải để lưu danh, mà để thực hiện đại sự cứu nước cứu dân. Đó mới thực sự là chí lớn xứng tầm bậc đại trượng phu.

Phân tích sâu sắc bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" - Bài mẫu số 5 xuất sắc
Trong dòng chảy lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam, Phan Bội Châu xứng đáng được tôn vinh là bậc vĩ nhân tiền bối của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Như nhận định của Tôn Quang Phiệt, cụ chính là linh hồn của các phong trào yêu nước suốt 25 năm đầu thế kỷ XX.
Tên tuổi Phan Sào Nam gắn liền với những dấu mốc lịch sử: Hội Duy Tân, phong trào Đông Du, Việt Nam Quang Phục Hội... Di sản đồ sộ để lại gồm hàng trăm bài thơ, hàng chục tác phẩm chính luận cùng những áng văn tế đẫm tinh thần yêu nước. Như Tố Hữu từng ngợi ca: "Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng".
Năm 1900, cụ đỗ Giải nguyên trường Nghệ. Bốn năm sau, Hội Duy Tân ra đời dưới sự sáng lập của cụ. Năm 1905 đánh dấu chuyến Đông Du lịch sử. Trước lúc lên đường, bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" (viết bằng chữ Hán theo thể thất ngôn bát cú Đường luật) đã trở thành bản hùng ca khắc họa khí phách hiên ngang cùng ý chí sắt đá của nhà cách mạng tiên phong.
Hai câu đề vang lên như tuyên ngôn bất hủ về chí nam nhi: "Sinh vi nam tử yếu hi kì/Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di". Làm trai phải tạo nên điều kỳ vĩ, không thể để trời đất tự xoay vần. Tư thế ấy được cụ thể hóa qua những vần thơ khác: "Dang tay ôm chặt bồ kình tế/Mở miệng cười tan cuộc oán thù".
Hai câu thực tiếp tục khẳng định vị thế cá nhân trong dòng chảy lịch sử: "Ư bách niên trung tu hữu ngã/Khởi thiên tải hậu cách vô thủy". Một niềm tự hào lớn lao về sứ mệnh lịch sử mà bậc nam nhi phải gánh vác, tiếp nối tinh thần "Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách" của các bậc tiền nhân.
Đến phần luận, cụ Phan đặt ra quan niệm sống chết trong thời loạn: "Non sông đã chết, sống thêm nhục/Hiền thánh còn đâu học cũng hoài". Khi đất nước rơi vào vòng nô lệ, việc đèn sách trở thành vô nghĩa. Cụ kêu gọi thanh niên trong "Bài ca chúc Tết thanh niên": "Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần... Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ".
Khép lại bài thơ là hai câu kết đầy khí thế: "Nguyệt trục trường phong Đông hải khứ/Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi". Hình ảnh ngọn gió dài (trường phong) và ngàn lớp sóng bạc (thiên trùng bạch lãng) trở thành biểu tượng cho ý chí sắt đá của người chiến sĩ cách mạng. Âm hưởng hào hùng ấy đã thực sự hóa thành hành động khi cụ dấn thân vào hành trình Đông Du đầy gian khổ.
"Lưu biệt khi xuất dương" xứng đáng là kiệt tác thơ ca yêu nước, kết tinh tinh thần bất khuất và lý tưởng cao đẹp của nhà chí sĩ vĩ đại Phan Bội Châu. Bài thơ không chỉ là lời tuyên ngôn mà còn là bản hùng ca cổ vũ tinh thần yêu nước của cả một thế hệ.

Phân tích chuyên sâu tác phẩm "Lưu biệt khi xuất dương" - Bài mẫu số 6 xuất sắc
Phan Bội Châu được tôn vinh là người tiên phong dùng văn chương làm vũ khí cách mạng, khơi nguồn cho dòng văn học trữ tình chính trị Việt Nam. Trong đó, "Lưu biệt khi xuất dương" là kiệt tác thể hiện rõ nhất tư tưởng ấy.
Bài thơ ra đời trong bữa tiệc chia tay trước chuyến Đông Du 1905, là tuyên ngôn đầy khí phách về trách nhiệm kẻ sĩ trước vận mệnh dân tộc. Khác với quan niệm "chí làm trai" truyền thống gắn với công danh (như Phạm Ngũ Lão: "Công danh nam tử còn vương nợ"), Phan Bội Châu nâng tầm thành lý tưởng cách mạng: "Làm trai phải lạ ở trên đời/Há để càn khôn tự chuyển dời".
Hai câu đề đặt ra triết lý sống chủ động: nam nhi phải tạo nên điều phi thường, xoay chuyển cả trời đất chứ không cam phận. Câu thơ chứa đựng tinh thần phản kháng mãnh liệt trước thời cuộc - điều hiếm thấy trong văn học trung đại.
Phần thực tiếp tục khẳng định vị thế cá nhân: "Trong khoảng trăm năm cần có tớ/Sau này muôn thuở há không ai?". Cái tôi ở đây không phải thứ vị kỷ tầm thường mà là ý thức sâu sắc về sứ mệnh lịch sử. Đây chính là điểm cách tân trong tư duy của nhà nho cách mạng đầu thế kỷ XX.
Đến phần luận, tác giả đặt ra nghịch lý đau đớn: "Non sông đã chết, sống thêm nhục/Hiền thánh còn đâu học cũng hoài". Khi đất nước mất chủ quyền, mọi giá trị truyền thống đều trở nên vô nghĩa. Đây là tiếng chuông cảnh tỉnh với những kẻ còn mải mê con đường khoa cử.
Hai câu kết vút lên khát vọng hành động: "Muốn vượt bể Đông theo cánh gió/Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi". Hình ảnh kỳ vĩ ấy không còn là ước lệ mà chính là hành trình Đông Du đầy gian khổ nhưng quyết tâm của người chí sĩ.
Bài thơ kết hợp nhuần nhuyễn bút pháp cổ điển với tinh thần hiện đại, tạo nên khúc tráng ca yêu nước đầy cảm hứng. Nhân vật trữ tình hiện lên với tầm vóc vũ trụ, mang khát vọng giải phóng dân tộc vĩ đại - hình mẫu lý tưởng của thanh niên thời đại mới.

Phân tích chuyên sâu tác phẩm "Lưu biệt khi xuất dương" - Bài mẫu số 7 đặc sắc
Phan Bội Châu (1867-1940) - người con ưu tú của mảnh đất Nam Đàn, Nghệ An - đã trở thành biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Sinh ra trong buổi quốc phá gia vong, chứng kiến sự thất bại của phong trào Cần Vương, cụ đã dũng cảm mở ra con đường cách mạng mới theo khuynh hướng dân chủ tư sản.
Không chỉ là nhà cách mạng tiên phong, Phan Bội Châu còn là cây bút xuất sắc với những tác phẩm làm rung động lòng người: "Việt Nam vong quốc sử", "Hải ngoại huyết thư", "Ngục trung thư"... Trong đó, "Lưu biệt khi xuất dương" (1905) là áng thơ bất hủ, khắc họa chân dung một trí thức Nho học đã vượt lên hệ tư tưởng phong kiến để tiếp thu tinh thần cách mạng mới.
Bài thơ mở đầu bằng tuyên ngôn đanh thép về chí nam nhi: "Làm trai phải lạ ở trên đời/Há để càn khôn tự chuyển dời". Khác với quan niệm truyền thống về "chí làm trai" gắn với công danh (như Phạm Ngũ Lão: "Công danh nam tử còn vương nợ"), Phan Bội Châu đã nâng tầm thành lý tưởng cách mạng - phải chủ động xoay chuyển thời cuộc.
Hai câu thực tiếp tục khẳng định ý thức sâu sắc về sứ mệnh lịch sử: "Trong khoảng trăm năm cần có tớ/Sau này muôn thuở, há không ai?". Cái "tớ" (ngã) ở đây không phải thứ cá nhân tầm thường mà là cái tôi trách nhiệm trước vận mệnh dân tộc.
Đến phần luận, bài thơ bộc lộ nỗi đau đớn trước hiện thực: "Non sông đã chết, sống thêm nhục/Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài!". Khi đất nước mất chủ quyền, mọi giá trị truyền thống đều trở nên vô nghĩa. Đây là tiếng chuông cảnh tỉnh với những trí thức còn mải mê con đường khoa cử.
Hai câu kết vút lên khát vọng hành động mãnh liệt: "Muốn vượt bể Đông theo cánh gió/Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi". Hình ảnh kỳ vĩ này không còn là ước lệ mà chính là hành trình Đông Du đầy gian khó nhưng quyết tâm của người chí sĩ.
Bằng bút pháp lãng mạn cách mạng, bài thơ đã xây dựng thành công hình tượng người anh hùng thời đại mới - dám đối mặt với càn khôn, dám xả thân vì nghĩa lớn. Như Nguyễn Ái Quốc từng ca ngợi, Phan Bội Châu xứng đáng là "bậc anh hùng, vị thiên sứ" của dân tộc.

Phân tích chuyên sâu tác phẩm "Lưu biệt khi xuất dương" - Bài mẫu số 8 xuất sắc
Những năm đầu thế kỷ XX, khi đất nước chìm trong nô lệ, Phan Bội Châu đã trở thành ngọn đuốc tiên phong với tư tưởng cách mạng mới. Bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" (1905) ra đời trước chuyến Đông Du lịch sử, là bản tuyên ngôn đầy khí phách của kẻ sĩ trước thời cuộc.
Hai câu mở đầu vang lên như lời thề: "Làm trai phải lạ ở trên đời/Há để càn khôn tự chuyển dời". Quan niệm này vượt lên tư tưởng Nho giáo truyền thống, đặt ra yêu cầu nam nhi phải làm nên điều phi thường, chủ động xoay chuyển thời thế.
Phần thực tiếp tục khẳng định ý thức sâu sắc về sứ mệnh: "Trong khoảng trăm năm cần có tớ/Sau này muôn thuở, há không ai?". Cái "tớ" ở đây không phải thứ cá nhân tầm thường mà là ý thức trách nhiệm trước vận mệnh dân tộc.
Đến phần luận, bài thơ bộc lộ nỗi đau trước hiện thực: "Non sông đã chết, sống thêm nhục/Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài". Đây là nhận thức tỉnh táo về sự bất lực của Nho giáo trước vận nước, đồng thời là tiếng chuông cảnh tỉnh với giới trí thức đương thời.
Hai câu kết vút lên khát vọng hành động mãnh liệt: "Muốn vượt bể Đông theo cánh gió/Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi". Hình ảnh kỳ vĩ này không còn là ước lệ mà chính là hành trình Đông Du đầy quyết tâm.
Bài thơ kết hợp nhuần nhuyễn bút pháp cổ điển với tinh thần hiện đại, xây dựng thành công hình tượng người chí sĩ cách mạng với tầm vóc vũ trụ và khát vọng giải phóng dân tộc.

Phân tích chuyên sâu tác phẩm "Lưu biệt khi xuất dương" - Bài mẫu số 9 xuất sắc
Phan Bội Châu - ngọn đuốc tiên phong của cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX - đã để lại dấu ấn không chỉ bằng sự nghiệp cứu nước mà còn qua những áng thơ văn cháy bỏng tình yêu Tổ quốc. Năm 1905, trước chuyến Đông Du lịch sử, bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" ra đời như một tuyên ngôn đầy khí phách.
Hai câu mở đầu vang lên lời tuyên bố đanh thép: "Làm trai phải lạ ở trên đời/Há để càn khôn tự chuyển dời". Quan niệm này vượt lên tư tưởng Nho giáo truyền thống, đòi hỏi nam nhi phải làm nên điều phi thường, chủ động xoay chuyển thời thế.
Phần thực tiếp tục khẳng định ý thức sâu sắc về sứ mệnh: "Trong khoảng trăm năm cần có tớ/Sau này muôn thuở, há không ai?". Cái "tớ" ở đây không phải thứ cá nhân tầm thường mà là ý thức trách nhiệm trước vận mệnh dân tộc.
Đến phần luận, bài thơ bộc lộ nỗi đau trước hiện thực: "Non sông đã chết, sống thêm nhục/Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài". Đây là nhận thức tỉnh táo về sự bất lực của Nho giáo trước vận nước.
Hai câu kết vút lên khát vọng hành động: "Muốn vượt biển Đông theo cánh gió/Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi". Hình ảnh kỳ vĩ này không còn là ước lệ mà chính là hành trình Đông Du đầy quyết tâm.

Phân tích sâu sắc tác phẩm "Lưu biệt khi xuất dương" - Bài mẫu số 10 đặc sắc
Phan Bội Châu (1867-1940) - nhà cách mạng kiệt xuất với trái tim sục sôi ý chí cứu nước - đã dùng ngòi bút như vũ khí đấu tranh. Bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" (1905) sáng tác trước chuyến Đông Du, là bản hùng ca về chí nam nhi thời loạn.
Mở đầu bằng tuyên ngôn đanh thép: "Làm trai phải lạ ở trên đời/Há để càn khôn tự chuyển dời", bài thơ vượt lên quan niệm Nho giáo truyền thống, đặt ra yêu cầu nam nhi phải làm nên điều phi thường, chủ động xoay chuyển thời thế.
Hai câu thực khẳng định ý thức sâu sắc về sứ mệnh: "Trong khoảng trăm năm cần có tớ/Sau này muôn thuở há không ai". Cái "tớ" ở đây là ý thức trách nhiệm trước vận mệnh dân tộc, không phải thứ cá nhân tầm thường.
Đến phần luận, bài thơ bộc lộ nỗi đau trước hiện thực: "Non sông đã chết sống thêm nhục/Hiền thánh còn đâu học cũng hoài". Đây là nhận thức tỉnh táo về sự bất lực của Nho giáo trước vận nước, đồng thời là tiếng chuông cảnh tỉnh giới trí thức.
Hai câu kết vút lên khát vọng hành động: "Muốn vượt bể Đông theo cánh gió/Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi". Hình ảnh kỳ vĩ này không còn là ước lệ mà chính là hành trình Đông Du đầy quyết tâm, với tư thế con người làm chủ vận mệnh.
Bài thơ kết hợp nhuần nhuyễn hình thức cổ điển với tinh thần hiện đại, xây dựng thành công hình tượng người chí sĩ cách mạng với tầm vóc vũ trụ và khát vọng giải phóng dân tộc, trở thành áng thi văn bất hủ của thời đại.

Phân tích chuyên sâu tác phẩm "Lưu biệt khi xuất dương" - Bài mẫu số 1 xuất sắc
Phan Bội Châu (1867-1940) - người con ưu tú của đất Nam Đàn, Nghệ An - đã trở thành biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" (1905) ra đời trước chuyến Đông Du lịch sử, là bản tuyên ngôn đầy khí phách của kẻ sĩ thời loạn.
Hai câu mở đầu vang lên lời tuyên bố đanh thép: "Làm trai phải lạ ở trên đời/Há để càn khôn tự chuyển dời". Quan niệm này vượt lên tư tưởng Nho giáo truyền thống, đặt ra yêu cầu nam nhi phải làm nên điều phi thường, chủ động xoay chuyển thời thế.
Phần thực tiếp tục khẳng định ý thức sâu sắc về sứ mệnh: "Trong khoảng trăm năm cần có tớ/Sau này muôn thuở, há không ai?". Cái "tớ" ở đây không phải thứ cá nhân tầm thường mà là ý thức trách nhiệm trước vận mệnh dân tộc.
Đến phần luận, bài thơ bộc lộ nỗi đau trước hiện thực: "Non sông đã chết, sống thêm nhục/Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài". Đây là nhận thức tỉnh táo về sự bất lực của Nho giáo trước vận nước, đồng thời là tiếng chuông cảnh tỉnh giới trí thức.
Hai câu kết vút lên khát vọng hành động: "Muốn vượt biển Đông theo cánh gió/Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi". Hình ảnh kỳ vĩ này không còn là ước lệ mà chính là hành trình Đông Du đầy quyết tâm, với tư thế con người làm chủ vận mệnh.
Bài thơ kết hợp nhuần nhuyễn hình thức cổ điển với tinh thần hiện đại, xây dựng thành công hình tượng người chí sĩ cách mạng với tầm vóc vũ trụ và khát vọng giải phóng dân tộc, trở thành áng thi văn bất hủ khơi nguồn cho văn học cách mạng Việt Nam.

Phân tích chuyên sâu tác phẩm "Lưu biệt khi xuất dương" - Bài mẫu số 2 đặc sắc
Phan Bội Châu - người mở đường cho nền văn học cách mạng Việt Nam - đã để lại dấu ấn sâu đậm qua thi phẩm "Lưu biệt khi xuất dương". Bài thơ được viết năm 1905 trước chuyến Đông Du lịch sử, là bản tuyên ngôn đầy khí phách về chí nam nhi thời loạn.
Hai câu mở đầu vang lên như lời thề: "Làm trai phải lạ ở trên đời/Há để càn khôn tự chuyển dời". Quan niệm này vượt lên tư tưởng Nho giáo truyền thống, đặt ra yêu cầu nam nhi phải làm nên điều phi thường, chủ động xoay chuyển thời thế.
Phần thực tiếp tục khẳng định ý thức sâu sắc về sứ mệnh: "Trong khoảng trăm năm cần có tớ/Sau này muôn thuở, há không ai?". Cái "tớ" ở đây không phải thứ cá nhân tầm thường mà là ý thức trách nhiệm trước vận mệnh dân tộc.
Đến phần luận, bài thơ bộc lộ nỗi đau trước hiện thực: "Non sông đã chết, sống thêm nhục/Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài". Đây là nhận thức tỉnh táo về sự bất lực của Nho giáo trước vận nước, đồng thời là tiếng chuông cảnh tỉnh giới trí thức.
Hai câu kết vút lên khát vọng hành động: "Muốn vượt bể Đông theo cánh gió/Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi". Hình ảnh kỳ vĩ này không còn là ước lệ mà chính là hành trình Đông Du đầy quyết tâm, với tư thế con người làm chủ vận mệnh.
Bài thơ kết hợp nhuần nhuyễn hình thức cổ điển với tinh thần hiện đại, xây dựng thành công hình tượng người chí sĩ cách mạng với tầm vóc vũ trụ và khát vọng giải phóng dân tộc, trở thành áng thi văn bất hủ của thời đại.

Phân tích chuyên sâu tác phẩm "Lưu biệt khi xuất dương" - Bài mẫu số 3 xuất sắc
Phan Bội Châu (1867-1940) - ngọn đuốc tiên phong của cách mạng Việt Nam - đã để lại dấu ấn không phai mờ qua thi phẩm "Xuất dương lưu biệt". Bài thơ viết năm 1905 trước chuyến Đông Du lịch sử, là bản hùng ca về chí nam nhi thời loạn với khí phách ngút trời.
Hai câu đề vang lên như tuyên ngôn: "Sinh vi nam tử yếu hi kì/Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di". Quan niệm làm trai phải tạo nên điều kỳ vĩ, không thể để mặc thời thế xoay vần đã thể hiện tầm vóc tư tưởng vượt thời đại.
Hai câu thực khẳng định ý thức sâu sắc về sứ mệnh: "Ư bách niên trung tu hữu ngã/Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy". Cái tôi cá nhân ở đây hòa quyện với trách nhiệm công dân trước vận mệnh dân tộc.
Hai câu luận bộc lộ nỗi đau trước hiện thực: "Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế/Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si". Nhận thức tỉnh táo về sự bất lực của Nho giáo trước vận nước đã trở thành tiếng chuông cảnh tỉnh giới trí thức đương thời.
Hai câu kết vút lên khát vọng hành động: "Nguyện trục trường phong Đông hải khứ/Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi". Hình ảnh kỳ vĩ với ngọn gió dài, muôn trùng sóng bạc đã trở thành biểu tượng cho hành trình cách mạng đầy quyết tâm.
Bài thơ kết hợp nhuần nhuyễn hình thức cổ điển với tinh thần hiện đại, xây dựng thành công hình tượng người chí sĩ yêu nước với tầm vóc vũ trụ. "Xuất dương lưu biệt" xứng đáng là kiệt tác mở đầu cho dòng văn học cách mạng Việt Nam.

Có thể bạn quan tâm

Khám phá hơn 100 mẫu Powerpoint chuyên nghiệp và miễn phí về chủ đề Y tế, giúp bạn truyền tải thông điệp một cách ấn tượng.

Tổng hợp những mẫu PowerPoint thuyết trình nhóm đẹp mắt và chuyên nghiệp hàng đầu

Đánh giá chi tiết dầu tẩy trang Klairs Gentle Black Deep Cleansing Oil đến từ Hàn Quốc

Tổng hợp những mẫu PowerPoint đáng yêu và ấn tượng nhất

Khám phá bộ sưu tập ảnh nền PowerPoint đẹp mắt, giúp bài thuyết trình của bạn trở nên chuyên nghiệp và thu hút.
