Top 10 Bài văn xuất sắc phân tích cái tôi trữ tình trong bài thơ "Tràng giang" của Huy Cận (lớp 11)
Nội dung bài viết
1. Bài văn số 4 phân tích sâu cái tôi trữ tình trong bài thơ "Tràng giang"
Trước Cách mạng, hồn thơ Huy Cận mang nét u sầu, man mác nỗi buồn sâu lắng về con người và thời cuộc. Cái tôi trữ tình hiện lên đượm màu hoài niệm, ảm đạm. Trong tập Lửa thiêng, bài thơ "Tràng giang" nổi bật như tiếng lòng khắc khoải, sầu muộn của thi nhân trước biến động của đất nước.
Mở đầu bài thơ bằng lời đề từ chan chứa tâm trạng cô đơn: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" – câu thơ khơi gợi bao cảm xúc bâng khuâng, nhớ về một thời đất nước yên bình, tự do. Nỗi bâng khuâng ấy đan xen nỗi buồn man mác, nỗi cô đơn không nguôi. Từ đây, cảm xúc thi nhân dâng trào, bắt đầu qua không gian sông nước rộng lớn, sóng vỗ liên hồi:
"Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song"
Đôi sóng nhỏ tưởng chừng lặng lẽ nhưng lại nối nhau lan rộng khắp mặt sông, như sóng lòng nhân vật trữ tình cuộn chảy không ngừng. Nỗi buồn càng sâu sắc khi con thuyền lẻ loi trôi giữa mênh mông nước rộng. Cảnh vật hòa quyện cùng tâm trạng, tạo nên bức tranh cô đơn thấm đẫm:
"Thuyền về nước lại sầu trăm ngả,
Củi một cành khô lạc mấy dòng"
Hình ảnh thuyền và nước ngược chiều nhau tượng trưng cho sự chia lìa, càng làm không gian thêm phần trống vắng, cô liêu. Cành củi khô trôi dạt lạc lõng giữa dòng càng gợi lên thân phận con người đơn độc, bấp bênh giữa cuộc đời đầy rẫy bất trắc. Huy Cận đã khắc họa bằng nét vẽ tinh tế thân phận con người đầy lạc lõng giữa thiên nhiên rộng lớn.
Khổ thơ tiếp theo mở rộng nỗi cô đơn đến tột cùng: "Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu / Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều / Nắng xuống trời lên sâu chót vót / Sông dài trời rộng bến cô liêu". Những từ ngữ "lơ thơ", "đìu hiu" gợi cảnh vật tàn tạ, hoang vắng. Tiếng chợ chiều xa xăm vọng lại như tiếng lòng cô độc của thi nhân. Nghệ thuật đối lập "nắng xuống – trời lên", "sông dài – trời rộng" cùng ngôn từ độc đáo đã khắc sâu sự trống trải, lạnh lẽo trong tâm hồn thi sĩ.
"Bèo dạt về đâu hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng."
Hình ảnh cánh bèo – biểu tượng thân phận lận đận, trôi dạt – nối tiếp không rõ phương hướng, phản ánh kiếp người phiêu bạt, số phận lưu lạc trong cảnh mất nước. Sự vắng bóng chuyến đò ngang như lời ẩn dụ cho nỗi cô đơn tuyệt vọng, khi người ta khao khát hơi ấm tình người nhưng chỉ nhận lại sự lạnh lẽo, hoang vu. Cảnh vật càng thêm thăm thẳm, tâm trạng càng thêm cô liêu.
Bức tranh thiên nhiên cuối cùng được tô điểm bằng nét vẽ tuyệt mỹ nhưng vẫn chất chứa nỗi cô đơn: "Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa." Cảnh núi mây hùng vĩ hòa cùng bóng hoàng hôn tạo nên khoảnh khắc tráng lệ, nhưng đồng thời cũng nhấn mạnh sự cô đơn sâu thẳm. Hình ảnh cánh chim nhỏ nghiêng nghiêng trong ánh chiều như bị nuốt chửng bởi không gian bao la, gợi cảm giác lạc lõng, đơn độc giữa vũ trụ rộng lớn.
Khép lại là nỗi nhớ quê da diết, tha thiết: "Lòng quê dờn dợn vợi con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà." Câu thơ như vang vọng tiếng lòng khao khát về chốn cũ, gợi nhớ đến nỗi sầu trong thơ cổ, nhưng vẫn rất hiện đại và trữ tình. Đằng sau nỗi nhớ ấy là tình yêu nước sâu sắc, bền bỉ của thi nhân.
Với ngôn từ tinh tế, kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, Huy Cận đã tạo nên một tác phẩm đặc sắc, phản ánh chân thực tâm trạng u sầu, nỗi cô đơn của cái tôi trữ tình trước cuộc đời và lịch sử. "Tràng giang" không chỉ là bài thơ ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên mà còn là bản tình ca thấm đẫm lòng yêu nước, đất nước (Xuân Diệu).

2. Bài phân tích cái tôi trữ tình trong bài thơ "Tràng giang" – Số 5
Trong thi ca trước Cách mạng Tháng Tám 1945, Huy Cận vẽ nên một thiên nhiên vừa quyến rũ vừa ngập tràn nỗi buồn sâu lắng. Thi nhân thường đặt cái tôi hữu hạn giữa không gian vô tận và thời gian dài vô biên, suy tưởng về sự sống vũ trụ qua những điều bình dị thường ngày, để rồi từ đó nảy sinh những triết lý man mác buồn. Bài thơ Tràng giang cũng thấm đẫm nỗi niềm ấy, thể hiện tâm trạng cô đơn sâu sắc của cái tôi trữ tình trước thiên nhiên bao la cùng lòng yêu nước thầm kín của thi sĩ.
Lời đề từ ngoài bài thơ đã khái quát tinh thần tác phẩm: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" – hình ảnh mở ra nguồn cảm hứng bất tận cho thi sĩ. Cái bâng khuâng ấy không chỉ nằm trong lòng người mà còn lan tỏa khắp đất trời, tạo nên sự hòa quyện giữa nỗi nhớ và không gian mênh mông. Ở khổ đầu, hình ảnh sông nước rộng lớn được miêu tả qua sóng gợn và con thuyền xuôi mái, gợi lên sự vô biên của dòng chảy và chiều sâu của nỗi buồn điệp điệp, trải dài theo không gian và thời gian.
"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,"
Câu thơ tạo nên âm hưởng trầm buồn, với những lớp sóng liên tiếp xô đẩy nhau như tâm trạng dâng trào trong lòng người. Dòng sông rộng dài được phác họa rõ nét qua chiếc thuyền nhỏ bé lênh đênh, nổi bật trước khung cảnh bao la. Nghệ thuật của Huy Cận không chỉ dừng lại ở hình ảnh mà còn khơi gợi xúc cảm sâu lắng về nỗi buồn kéo dài xuyên suốt không gian và thời gian.
Khổ tiếp theo vẽ nên cảnh vật thêm phần cô đơn, vắng lặng với cồn nhỏ gió đìu hiu, tiếng làng xa vẳng chợ chiều, bầu trời cao sâu chót vót và bến sông cô liêu. Sự giao hòa giữa thiên nhiên và cảm xúc con người tạo nên một bức tranh tràng giang đượm buồn man mác, khiến lòng người như thắt lại trong nỗi nhớ nhà, nhớ quê.
"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều."
Khung cảnh rộng lớn, vắng vẻ ấy còn được tô điểm bằng hình ảnh bèo trôi dạt, con thuyền không đò ngang, bờ xanh nối tiếp bãi vàng, tất cả như nói lên sự tan tác, chia ly và cô đơn cùng cực của kiếp người.
Bốn câu thơ cuối của bài là sự kết tinh của tâm trạng sâu sắc nhất khi mây lớp lớp đùn núi bạc, chim nhỏ nghiêng cánh trong bóng chiều, cảnh sắc thiên nhiên dù tuyệt đẹp nhưng vẫn mang dáng vẻ cô liêu, hoang vắng. Nỗi buồn tha hương càng dâng trào trong lòng thi nhân, bồi đắp thêm nét buồn man mác trong tâm hồn bạn đọc.
"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa."
Bài thơ Tràng giang hòa quyện tinh hoa cổ điển thơ Đường với hơi thở hiện đại của Thơ mới, mở rộng không gian tâm hồn thi nhân, đồng thời thể hiện tình yêu sâu sắc, thiết tha với đất nước. Đó là nỗi buồn trong sáng, tinh tế, làm giàu thêm cảm xúc của người thưởng thức và góp phần làm nên giá trị bất hủ cho tác phẩm.

3. Phân tích sâu sắc cái tôi trữ tình trong bài thơ "Tràng giang" - Bài số 6
“Tràng Giang” là ngọn lửa bừng sáng trong tập thơ đầu tay "Lửa thiêng" của Huy Cận. Bài thơ ra đời vào một chiều thu năm 1939, khi tác giả đạp xe dọc đê sông Hồng mùa nước lũ. Trước dòng sông mênh mông và hoang vắng, tâm hồn thi nhân hòa theo dòng nước trôi, để rồi cái hữu hạn của con người được đặt vào không gian rộng lớn bao la. "Tràng Giang" khắc họa nỗi buồn man mác, thể hiện tâm trạng cái tôi trữ tình cô đơn trước thiên nhiên hùng vĩ, đồng thời ẩn chứa triết lý sâu sắc cùng tình yêu đất nước thầm kín.
Tựa đề "Tràng Giang" – nghĩa là "sông dài" – không chỉ đơn thuần chỉ một dòng sông cụ thể, mà còn là hình ảnh gợi nhớ về những dòng sông quê hương trong ký ức như Ngàn Sâu, Ngàn Phố, Sông Lam, Sông La hay Sông Hương. Tên gọi ấy như một biểu tượng cho sự u hoài, bâng khuâng trong lòng người. Qua đó, tác giả tóm gọn tư tưởng và nghệ thuật: bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
Những câu thơ đầu tiên mở ra khung cảnh bao la sóng nước:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Từng lớp sóng nhấp nhô dập dìu khơi gợi nỗi buồn đan xen triền miên. Âm vang của từ "điệp điệp" như dồn nén nỗi niềm sâu kín, tạo nên âm điệu trầm buồn đọng lại mãi. Hình ảnh con thuyền nhỏ xuôi mái giữa dòng nước mênh mông càng làm nổi bật sự cô đơn, bé nhỏ của cái tôi trữ tình trong thiên nhiên rộng lớn. Nghệ thuật miêu tả sắc nét cùng cảm xúc dạt dào của hai câu thơ như phác họa tâm hồn man mác cô đơn, biểu tượng của cái tôi thơ mới.
Tiếp theo là nỗi sầu trải rộng:
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Hình ảnh "thuyền" và "nước" ngược chiều nhau như một biểu tượng của sự chia lìa, đẩy không gian vào sự heo hút, cô liêu. "Củi một cành khô" mong manh, bơ vơ giữa dòng nước rộng lớn, như ẩn dụ cho thân phận con người cô đơn, nhỏ bé trước sóng gió cuộc đời, tràn đầy nỗi buồn và niềm trăn trở về lý tưởng sống. Sự giản dị của hình ảnh lại khơi dậy cảm xúc sâu sắc về thân phận con người cô đơn giữa cuộc đời mênh mông.
Khổ thơ thứ hai mở rộng bức tranh thiên nhiên và con người với nỗi buồn sâu lắng hơn:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều;
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Khung cảnh cồn cỏ thưa thớt, gió heo hút tạo nên nét cô đơn, trống trải. Âm thanh làng quê xa vắng vang vọng như dội vào lòng người niềm cô quạnh. Ánh nắng chiều tà hòa cùng bầu trời sâu thẳm, rộng lớn làm không gian càng thêm phần hoang vắng, tạo cảm giác bến bờ cô liêu, đậm nét tâm trạng cô đơn trong tâm hồn cái tôi trữ tình.
Bèo trôi dạt không điểm tựa:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Những lớp bèo trôi nối tiếp như ẩn dụ thân phận con người bơ vơ, lạc lõng, bế tắc. Không một chuyến đò ngang, không một cây cầu, sự thiếu vắng kết nối càng làm tăng thêm sự cô lập, xa cách, tạo nên tâm trạng bâng khuâng, mênh mang trong cái tôi trữ tình.
Bài thơ khép lại với hình ảnh thiên nhiên mang nặng tâm sự con người:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Thiên nhiên hùng vĩ với mây núi xa vời, chim chao nghiêng cánh nhỏ bé giữa chiều tà như minh họa cho sự cô đơn sâu sắc. Tâm hồn con người chìm trong sự mênh mông vô tận của trời đất, dấy lên nỗi nhớ quê hương tha thiết. Hình ảnh "dợn dợn" tinh tế gợi lên tâm trạng dao động, nhạy cảm của cái tôi trữ tình. Không cần có "khói hoàng hôn", nỗi nhớ nhà vẫn vẹn nguyên, như một nỗi buồn thường trực không nguôi trong tâm hồn thi nhân.
“Tràng Giang” qua âm điệu trầm lắng và cảm xúc tinh tế đã khắc họa sâu sắc cái tôi trữ tình với trái tim cô đơn nhưng chan chứa tình yêu đất nước mãnh liệt. Qua tác phẩm, ta không chỉ cảm nhận được nỗi niềm của thi nhân mà còn trân trọng tài năng và tâm hồn sâu sắc của Huy Cận.

4. Phân tích cái tôi trữ tình trong bài thơ "Tràng giang" số 7
Vì sao Huy Cận được tôn vinh là nhà thơ mang nỗi buồn sâu thẳm nhất trong các thi nhân của phong trào thơ mới 1930-1945? Đó là bởi cái tôi trữ tình trong các sáng tác của ông luôn chất chứa một nỗi buồn vĩnh cửu, một sự cô đơn tuyệt vọng khi đối diện với không gian vô biên và cảm giác lạc lõng trong vũ trụ mênh mông. Trong bài thơ 'Tràng giang', Huy Cận đã khéo léo bộc lộ cái tôi ấy, khiến mỗi câu chữ thấm đẫm sự buồn bã, chia ly. Cái tôi trữ tình là khái niệm phổ biến trong văn học, ám chỉ chủ thể sáng tạo - là trung tâm truyền tải cảm xúc, tình cảm, và những khát vọng, ưu tư trong bài thơ, thể hiện một cách rõ ràng và sâu sắc qua từng âm điệu. Trong 'Tràng giang', Huy Cận đã hòa mình vào cảnh vật thiên nhiên, khiến không gian ấy cũng mang bóng dáng tâm trạng của một con người nhỏ bé, cô đơn, lạc lõng giữa không gian bao la:
'Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.'
Trước không gian rộng lớn, không gì có thể làm con người cảm thấy nhỏ bé, cô đơn và lạc lõng hơn thế. Tác giả, cũng như một con sóng lững lờ, một chiếc thuyền trôi dạt hay một cành củi trôi nổi vô định, tất cả đều phảng phất sự vô vọng. Từ 'điệp điệp' nhấn mạnh sự mênh mông của mặt nước, kết hợp cùng 'song song' tạo ra chiều dài không gian vĩnh hằng. Khổ thơ tiếp theo vẽ lên bức tranh một cái tôi mang tâm trạng sầu tủi, hiu quạnh giữa không gian vắng lặng:
'Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.'
Với những hình ảnh cồn nhỏ, chợ chiều và bến đò vắng vẻ, Huy Cận khắc họa sự tĩnh lặng tuyệt đối, như một không gian đã bỏ quên tất cả. Cảnh vật yên ả không phải là nơi chốn để tìm kiếm sự giao cảm, mà lại càng làm nổi bật sự cô đơn, xa cách. Những hình ảnh bèo, dòng sông, và bến đò như phản chiếu cái tôi nhỏ bé, không nơi nương tựa, lạc lõng:
'Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.'
Cái tôi ấy như đắm chìm vào những lớp bèo trôi dạt, không điểm dừng. Và khép lại là khung cảnh mây núi, chiều tà, ánh sáng dần tắt, tất cả như muốn dồn nén nỗi nhớ quê hương sâu lắng trong tâm hồn thi sĩ:
'Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.'
Cái tôi trong câu thơ cuối là nỗi nhớ quê hương thấm đẫm, mặc dù không có khói sóng hay cảnh vật đặc trưng, nhưng nỗi nhớ ấy vẫn hiện hữu một cách mãnh liệt. Dưới bầu trời mênh mông, cái tôi ấy cảm nhận được sự trống vắng của quê nhà, dù ở đâu vẫn luôn dội về một nỗi khao khát không nguôi về tình người, quê hương.

5. Bài phân tích cái tôi trữ tình trong bài thơ "Tràng giang" - số 8
Huy Cận được xem là nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới với cái "tôi" trữ tình đặc sắc, độc nhất vô nhị giữa các thi nhân. Trước cách mạng tháng Tám, thơ ông thấm đẫm nỗi buồn sâu lắng, chứa đựng những tâm tư thầm kín với đời và quê hương. Bài thơ "Tràng giang" nổi bật với nét bút đầy chất thơ, khắc họa rõ nét cái tôi ấy.
Lấy cảm hứng từ dòng sông mênh mông, tác giả gửi gắm tâm sự sâu kín qua từng hình ảnh thiên nhiên. Lời đề từ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" mở ra nỗi buồn mênh mang, cái tôi nhỏ bé, hiu quạnh giữa không gian bao la. Bức tranh thiên nhiên vừa thơ mộng vừa đầy ám ảnh bằng những câu thơ:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả,
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Không gian rộng lớn ấy làm con người thêm chơi vơi, lạc lõng như cành củi khô trôi dạt giữa dòng nước mênh mông. Cái tôi Huy Cận chìm sâu vào cảm giác cô đơn, bất lực trước thiên nhiên bao la, tạo nên nỗi buồn thấm thía, không thể nguôi ngoai.
Ở khổ tiếp theo:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống trời lên sâu chót vót,
Sông dài trời rộng bến cô liêu.
Âm thanh và bóng dáng cuộc sống dần xuất hiện, nhưng chỉ là những điểm nhỏ bé, mờ nhạt giữa cảnh vật u tịch. Hình ảnh "cồn nhỏ", "chợ chiều", "bến cô liêu" làm nổi bật tâm trạng trống trải, cô đơn của cái tôi. Nỗi buồn ấy như hòa tan cùng thiên nhiên, gắn bó mật thiết với tâm hồn thi sĩ.
Huy Cận như một người lữ hành cô độc giữa không gian bao la, cảm nhận thiên nhiên không phải là chốn an ủi, mà là nơi phản chiếu nỗi cô đơn sâu sắc của mình, tiêu biểu cho phong cách thơ trước cách mạng.
Khổ thơ cuối:
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Hình ảnh bèo trôi vô định tượng trưng cho tâm hồn rời rạc, khao khát tình thương nhưng bị thiên nhiên và xã hội bỏ rơi. Từ đó, cái tôi trữ tình trong "Tràng giang" hiện lên với nét cô đơn tuyệt vọng, mang trong mình nỗi đau bế tắc không lối thoát.

6. Bài phân tích cái tôi trữ tình trong bài thơ "Tràng giang" - số 9
Nhà phê bình Hoài Thanh từng nhận định về nhà thơ Huy Cận như một người đánh thức linh hồn buồn của Đông Á, người khơi dậy mạch sầu mấy nghìn năm thấm sâu trong đất trời. Quả thật, Huy Cận đã bước vào thi đàn với một tâm hồn đa cảm, đa sầu, và cái tôi trữ tình ấy luôn đồng hành cùng ông trong những năm tháng sáng tác trước Cách mạng. Đặc biệt, trong bài thơ Tràng giang, được in trong tập “Lửa thiêng” (1940), cái tôi ấy hiện rõ ràng và sâu sắc nhất.
Cái tôi trữ tình trong Tràng giang là nỗi cô đơn, buồn bã sâu thẳm. Ngay từ khi ra đời, cảm xúc ấy đã tràn ngập trong tâm hồn nhà thơ, khi chàng sinh viên Canh nông năm ấy không thể giấu nổi sự bâng khuâng trước cảnh sông Hồng rộng lớn. Nhân đề “Tràng giang” cùng lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đã mở ra không gian mênh mông, khiến con người trở nên nhỏ bé, và nỗi buồn vì thế mà trải dài, lan tỏa khắp chốn. Mỗi khổ thơ là một lần tiếp xúc với nỗi cô đơn sâu sắc đến thấu tim gan.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả,
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Nét buồn, sự cô đơn hiện hữu rõ nét từ những câu thơ đầu. Nhà thơ tìm kiếm hình ảnh để khỏa lấp cái bâng khuâng trước trời rộng, sông dài, nhưng ngoài hiện thực lại là sóng gợn, thuyền trôi lạc lõng, củi khô trôi dạt vô phương. Sóng không chỉ gợn nhẹ mà buồn điệp điệp như sóng lòng lan tỏa, thuyền không hòa cùng nước mà xuôi song song, tách biệt; hình ảnh củi một cành khô, giản đơn đời thường nhưng mang sức mạnh hiện đại, biểu tượng cho thân phận cô đơn, trơ trọi, bơ vơ trong dòng đời lênh đênh.
Không gian tiếp tục được mở rộng đến cực điểm, cái tôi bị choáng ngợp trong vũ trụ bao la:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều,
Nắng xuống trời lên sâu chót vót,
Sông dài trời rộng bến cô liêu.
Dù có cồn nhỏ, làng xa, nhưng không hề ấm áp; những từ láy như “lơ thơ”, “đìu hiu” khiến mọi thứ trở nên cô quạnh, tiêu sơ. Âm thanh xa xôi và ảm đạm của tiếng vãn chợ chiều khiến không gian trống trải càng thêm tịch mịch. Huy Cận là thi sĩ của nỗi sầu vũ trụ, nỗi sầu tích tụ ngàn năm, vì vậy không gian vũ trụ rộng lớn là nơi thích hợp nhất để thể hiện nỗi buồn và cô đơn ấy. Hai câu thơ cuối khắc họa chiều sâu ấy, nắng và trời như đẩy nhau lên xuống tạo thành chiều sâu thăm thẳm, sông dài trời rộng càng làm cho cái tôi nhỏ bé và bến cô liêu thêm phần trống trải, nhưng nỗi buồn lại căng tràn, tràn ngập khắp không gian.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang,
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Hình ảnh hàng bèo, quen thuộc trong thơ cổ nhưng được Huy Cận thổi hồn mới, trở thành biểu tượng cho nỗi cô đơn, bấp bênh, vô định của kiếp người. Bèo trôi dạt không biết về đâu, trên dòng sông không một chuyến đò, không cầu nối, không một dấu hiệu của sự sống con người, khiến nỗi cô đơn trở thành tuyệt vọng, bế tắc. Không gian mênh mông, xa cách ấy làm nổi bật nỗi lòng cô đơn, u sầu, và cả sự đáng thương của cái tôi trữ tình.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa,
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Khung cảnh hùng vĩ, tráng lệ hơn nhưng không thể che lấp cảm giác trống trải, cô đơn. Cánh chim nhỏ chao đảo giữa mây trời chiều tà như gợi lên thân phận mong manh, đơn độc. Nỗi buồn, cô đơn của thi nhân được đẩy lên tột cùng, tạo nên sức nặng đè lên cả vũ trụ rộng lớn.
Dẫu sắc thái chủ đạo là cô đơn, sầu não, cái tôi trữ tình trong bài thơ còn ẩn chứa một tình yêu sâu sắc, tha thiết với quê hương đất nước. Sự buồn bã trong thơ không chỉ là nỗi buồn cá nhân mà còn là sự rung cảm với thiên nhiên, cảnh vật đất nước. Việc đặt tên bài thơ là “Tràng giang” thay vì dòng sông Hồng cụ thể đã mở rộng ý nghĩa, để dòng sông ấy trở thành hình ảnh chung của mọi dòng sông quê hương, chứa đựng linh hồn của kẻ sĩ xa quê.
Mặc dù bài thơ mang nét cổ xưa, nhưng không hề khô khan, tượng trưng mà đậm chất chân thực, thậm chí có những hình ảnh đời thường hiện đại, thể hiện tình yêu và sự gắn bó sâu nặng với đất nước. Nỗi nhớ nhà hiện lên đậm đà qua từng câu chữ cuối bài:
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Điệu trầm buồn, sự tinh tế trong cách chọn từ láy “dợn dợn” vừa gợi nhịp sóng, vừa chứa đựng nỗi nhớ da diết. Cảm xúc ấy dù gợi hứng từ thơ cổ, nhưng lại tràn đầy sự chân thành và tha thiết của một tâm hồn yêu quê hương. Cái tôi trữ tình trong Tràng giang – cô đơn, u sầu nhưng chan chứa tình yêu đất nước – đã đi vào lòng người bằng sự đồng cảm và sẻ chia sâu sắc, thể hiện một tài năng và tâm hồn thơ thật đáng trân trọng.

7. Bài phân tích sâu sắc cái tôi trữ tình trong bài thơ "Tràng giang" - số 10
Khi nhắc đến phong trào Thơ mới, không thể không kể đến hồn thơ Huy Cận – giàu cảm xúc, tràn ngập suy tưởng triết lí sâu sắc. "Tràng giang" được xem là tác phẩm tiêu biểu nhất của ông, nơi mà bức tranh thiên nhiên hùng vĩ được thi sĩ khắc họa bằng ngôn ngữ tinh tế, ẩn chứa cái tôi trữ tình đượm buồn cô tịch, cô đơn trước cảnh vật, đồng thời thể hiện tình yêu tha thiết, sâu nặng với quê hương, đất nước.
Bài thơ ra đời từ cảm xúc một chiều thu năm 1939, khi Huy Cận đứng bên bờ Nam bến nước Chèm, ngắm nhìn sóng sông Hồng mênh mông, ông buồn thương cho thân phận con người nhỏ bé. Khi ấy, ông đang học tại Trường Cao đẳng Canh nông ở Hà Nội, mang trong lòng nỗi sầu xa quê cùng nỗi niềm trước hoàn cảnh đất nước bị xâm lăng, tất cả hòa quyện trong hồn thơ thấm đượm nỗi buồn nhân thế và tình yêu đất nước sâu kín.
Thiên nhiên trong "Tràng giang" hiện lên qua không gian hai chiều rộng lớn: mặt sông kéo dài tít tắp sang bờ bên kia với "Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu" và chiều sâu cao vút khi ngước mắt nhìn trời chiều. Bức tranh thiên nhiên pha trộn nét cổ điển với hình ảnh sông, trời, thuyền, mây, cánh chim nghiêng, nhưng cũng đồng thời mang dấu ấn hiện đại đậm đà bản sắc dân tộc qua những cách tân độc đáo như "Củi một cành khô lạc mấy dòng", "Nắng xuống trời lên sâu chót vót", hay "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà". Sự kết hợp tài tình giữa cổ điển và hiện đại tạo nên cảnh vật đẹp mà buồn vô tận, nỗi buồn dâng tràn khi "Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp".
Ẩn sâu sau cảnh thiên nhiên ấy là cái tôi trữ tình với tình yêu thiết tha dành cho thiên nhiên và đất nước. Chỉ có rung động thật sự mới có thể tạo nên những câu thơ giàu sức gợi như vậy. Đồng thời, cái tôi ấy còn mang trong mình tâm trạng cô đơn, buồn thương. Nỗi buồn ấy bắt đầu bằng "buồn điệp điệp" và khép lại bằng "Lòng quê dợn dợn vời con nước". Cảnh vật hiện lên qua hình ảnh củi khô trôi dạt giữa dòng sông rộng lớn, cánh chim nhỏ nghiêng mình dưới bóng chiều tà. Cuộc sống nơi đây thật mênh mông, không có chuyến đò ngang, không còn cầu bắc, chỉ còn cái tôi nhỏ bé lẻ loi giữa thiên nhiên vô tận. Sự đối diện với vô cùng ấy làm nhà thơ thấm thía sự hữu hạn của đời người, như một "chiếc linh hồn nhỏ" mang trong mình "Mang mang vạn cổ sầu" đặc trưng cho riêng Huy Cận.
Bài thơ còn phơi bày tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và tài hoa của tác giả, cùng tình yêu quê hương đất nước sâu sắc nhưng kín đáo. Hoàn cảnh sáng tác năm 1939, khi dân tộc đang trong cơn khốn khó trước giặc ngoại xâm, nội xâm, cuộc sống người dân đầy cơ cực. Huy Cận, cũng như bao trí thức yêu nước, thấm thía nỗi đau của dân tộc và lòng dân mà chưa tìm được lối thoát, cho đến khi bắt gặp ánh sáng của lý tưởng cách mạng.
"Tràng giang" kết hợp hài hòa giữa nét cổ điển và hiện đại qua thể thơ bảy chữ niêm luật, giàu âm điệu, gợi nhắc về đặc điểm chung của mọi con sông quê hương, đồng thời khắc họa cái tôi trữ tình sâu sắc, đáng trân trọng trong tâm hồn thi sĩ.

8. Bài phân tích sâu sắc cái tôi trữ tình trong bài thơ "Tràng giang" - số 1
Trong dòng chảy của phong trào Thơ mới cũng như nền văn học Việt Nam hiện đại, Xuân Diệu và Huy Cận là hai cây đại thụ lớn, là những tên tuổi rực rỡ với đóng góp vô cùng quan trọng. Dù là bạn tri âm, tri kỷ thân thiết, mỗi người lại mang trong mình một nỗi niềm riêng biệt sâu sắc. Xuân Diệu trọn đời mang ám ảnh về thời gian, với lòng yêu đời nồng nhiệt và đầy say mê cháy bỏng. Trái lại, Huy Cận lại luôn bị ám ảnh bởi không gian, tâm hồn ông đa sầu đa cảm, thơ ông thấm đẫm nỗi buồn thế sự, cái tôi trữ tình cô đơn, bơ vơ trước dòng chảy rối ren của cuộc đời. Cái tôi ấy hiện lên đậm nét trong bài thơ Tràng giang, tác phẩm làm nên tên tuổi của Huy Cận như một biểu tượng tiêu biểu của phong trào Thơ mới giai đoạn 1932-1941.
Huy Cận (1919-2005), tên khai sinh là Cù Huy Cận, không chỉ là một nhà thơ xuất sắc của Thơ mới mà còn là một chính khách gắn bó nhiều năm với bộ máy nhà nước. Trước Cách mạng, thơ ông mang nỗi buồn da diết, vời vợi như trời đất bao la, là tiếng lòng đau đáu về số phận con người, về cảnh nước nhà đầy biến động, và sự bất lực của người thi sĩ trước thời cuộc. Sau Cách mạng, thơ ông chuyển mình tươi mới, rạng rỡ với niềm lạc quan, ca ngợi vẻ đẹp quê hương, đất nước và thiên nhiên rộng lớn. Những tác phẩm tiêu biểu như Lửa thiêng, Vũ trụ ca, Trời mỗi ngày lại sáng đã thể hiện rõ hồn thơ độc đáo ấy.
Tràng giang, trích từ tập Lửa thiêng, được cảm hứng từ cảnh mênh mông sóng nước sông Hồng, hòa quyện cùng cái tôi trữ tình đầy sầu thương, đa cảm. Thơ vừa mang âm hưởng cổ điển của thi ca Đường, lại pha nét hiện đại từ văn học Pháp, tạo nên dấu ấn riêng cho Huy Cận giữa phong trào Thơ mới. Bài thơ không chỉ bộc lộ nỗi lòng riêng tư về đời người bơ vơ, lạc lõng giữa dòng đời như dòng nước mênh mang mà còn thể hiện tình yêu quê hương đất nước sâu sắc, thầm lặng.
Chỉ nhìn nhan đề “Tràng giang” thôi, ta đã cảm nhận rõ cái tôi trữ tình cô đơn, nhỏ bé giữa thiên nhiên bao la. Âm vang điệp âm “ang” kéo dài mở rộng không gian của dòng sông rộng lớn – không gian vũ trụ lạnh lẽo và cô quạnh trong tâm hồn thi sĩ. Sự lựa chọn từ Hán Việt cổ kính càng làm nổi bật nỗi buồn sâu lắng, nỗi cô tịch và cả sự hồi tưởng về quá khứ hào hùng trải qua mấy ngàn năm lịch sử, khiến người đọc liên tưởng đến nỗi niềm của các trí thức thời bấy giờ trước cuộc đời sóng gió.
Huy Cận không gọi tên cụ thể sông Hồng mà chỉ dùng “Tràng giang” như hình ảnh đại diện cho mọi dòng sông trên mảnh đất hình chữ S, cũng như những nỗi niềm trong lòng ông là tiếng nói chung của thế hệ thanh niên Việt Nam lúc bấy giờ. Họ là những con người sống giữa quê hương yêu dấu nhưng tâm hồn luôn cảm thấy cô đơn, lạc lõng, bất lực trước thời cuộc nước mất nhà tan.
Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” kết hợp với nhan đề đã mở ra không gian bao la vũ trụ với bầu trời rộng lớn, dòng sông dài vô tận, khoảng cách xa vời giữa trời và nước. Chính trong không gian rộng lớn ấy, cái tôi cá thể hiện lên rõ nét, thức dậy những cảm xúc bâng khuâng, nỗi nhớ da diết của một tâm hồn cô độc, lẻ loi giữa trời đất bao la, cảm nhận sự lạnh lẽo mà sóng nước mang lại.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Nỗi buồn thi nhân không chỉ dồn vào lòng, mà lan tỏa ra cảnh vật xung quanh. Câu thơ vang lên như lời Nguyễn Du từng viết cho nàng Kiều: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Thi sĩ Huy Cận nhìn dòng sông rộng lớn cũng nhuộm trong màu sắc ảm đạm, u buồn, phản chiếu tâm trạng cô đơn sâu sắc. Nỗi buồn không dồn dập dữ dội mà nhẹ nhàng, tuần hoàn như những gợn sóng lặng lẽ trên mặt sông. Hình ảnh thuyền và nước vốn là biểu tượng cổ điển thường thấy trong thơ ca, gợi sinh khí mới trong bài thơ với sự hòa hợp “mái nước song song”.
Song dưới ngòi bút Huy Cận, thuyền nước không còn là sự hòa hợp mà là hình ảnh chia ly, mỗi bên một ngả, cùng đường nhưng ngược chiều, không thể giao hòa. Thuyền cô đơn, nước lẻ bóng trên dòng sông mênh mông, là “sầu trăm ngả”. Hình ảnh “Củi một cành khô lạc mấy dòng” như một ẩn dụ hiện đại cho cái tôi trữ tình đầy dự cảm về sự chia lìa, lạc lõng của thi nhân.
Cành củi khô nổi lềnh bềnh giữa dòng nước, tượng trưng cho số phận con người mong manh, vô định, bất lực trước dòng đời. Cái tôi trữ tình của Huy Cận chất chứa nỗi đau và sự đớn đau khi đứng nhìn dòng chảy cuộc đời cuốn trôi mình, chưa tìm được lối thoát hay sự kháng cự. Khung cảnh sông nước không mang lại hơi ấm, chỉ có sự lạc lõng và cô đơn sâu sắc, khiến thi nhân phải tìm kiếm chút hơi ấm trong một không gian khác rộng lớn hơn.
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều,
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”
Nhưng chẳng may, khung cảnh khác ấy càng trống trải, hoang vắng, buốt lạnh hơn. Từ láy “lơ thơ” gợi cảm giác thưa thớt, xa xăm của những cồn cát nhỏ thấp thoáng trên dòng sông rộng, rồi gió “đìu hiu” càng làm gia tăng cảm giác cô quạnh, tịch liêu trong lòng thi sĩ. Tiếng “vãn chợ chiều” của làng xa tuy còn vang vọng nhưng rất xa xôi, nhỏ bé, càng làm nổi bật sự tĩnh lặng và cô đơn tuyệt đối nơi chốn này. Nghệ thuật lấy động chế tĩnh khiến cảnh vật yên ắng đến ám ảnh.
So sánh tiếng ồn ào vãn chợ nơi xa với sự tĩnh lặng chốn bến sông, cái tôi thi nhân càng cảm thấy cô đơn hơn khi chỉ mình ông biết về sự tồn tại của những con người ấy, còn người ngoài kia liệu có biết về ông, một kẻ lạc lõng bên bến sông im lìm? Hai câu thơ cuối càng nhấn mạnh khoảng cách rộng lớn, sự xa cách tuyệt đối giữa trời và đất, sông và bến, như minh chứng cho tâm trạng đơn độc, lẻ loi của cái tôi trữ tình.
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Khổ thơ thứ ba tiếp tục đẩy nỗi cô đơn lên đỉnh điểm. Hình ảnh “bèo” tuy quen thuộc trong thi liệu cổ điển nhưng ở đây mang ý nghĩa mới mẻ: những kiếp người nhẹ bẫng, trôi dạt vô định trên dòng đời. Tâm hồn thi nhân cũng như bèo, nhẹ nhàng và bấp bênh giữa dòng chảy vô tận. Thi sĩ mong chờ một “chuyến đò ngang” thân quen để nối nhịp tình cảm, nhưng tuyệt nhiên không có, khúc sông rộng lớn chỉ còn lại ông đơn độc. Cảnh sắc thiên nhiên lạnh lùng, vô tình, không có chút hơi ấm hay thân mật nào, khiến nỗi buồn trở nên sâu thẳm và vô tận.
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Ở khổ cuối, không gian vũ trụ lại được mở rộng qua hình ảnh lớp mây chồng chất ôm lấy núi bạc chót vót, tạo nên cảnh sắc hùng vĩ nhưng lại đầy cô đơn. Cánh chim nhỏ bé chao nghiêng trong bóng chiều như biểu tượng cho cái tôi cô độc, nhỏ bé giữa thiên nhiên bao la rộng lớn, mỏi mệt và tìm không thấy chốn dừng chân. Cảm xúc này dẫn dắt thi nhân về nỗi nhớ quê hương sâu sắc, tha thiết dù đứng trên mảnh đất quê hương nhưng lòng vẫn bâng khuâng, xao xuyến. Nỗi nhớ ấy không cần đến hình ảnh “khói hoàng hôn” vẫn vẹn nguyên sức sống trong tâm hồn thi sĩ.
Đằng sau bức tranh thiên nhiên mênh mông ấy là nỗi buồn chung của cả một thế hệ: nỗi đau nước mất nhà tan, niềm suy tư về một tổ quốc anh hùng từng có bề dày văn hiến ngàn năm giờ phải chịu cảnh rối ren, nô lệ. Huy Cận với hồn thơ thường mang sầu muộn bẩm sinh, đã kết tinh từ nỗi ám ảnh không gian sâu sắc để tạo nên Tràng giang – một thi phẩm xuất sắc, chứa đựng cái tôi trữ tình cô đơn, đầy nỗi sầu và sự bế tắc trước những bất công của quê hương, đất nước mà thi nhân chỉ biết đứng nhìn trong sự bất lực đắng cay.

9. Bài phân tích về cái tôi trữ tình trong bài thơ "Tràng giang" số 2
"Tràng giang" là một trong những tác phẩm nổi bật nhất của Huy Cận, được sáng tác trước Cách mạng tháng Tám. Chủ đề chính của bài thơ phản ánh sự cô đơn, lạc lõng và những nỗi buồn sâu lắng trong tâm hồn của cái tôi trữ tình.
Nhân đề và mở đầu bài thơ đã thể hiện đầy đủ cảm xúc chủ đạo. Cụm từ "tràng giang" với âm điệu “ang” tạo ra sự lan tỏa mạnh mẽ, như dòng sông vĩnh viễn không có điểm dừng. Cảnh sông nước bao la trong những câu thơ đầu tiên gợi lên một nỗi buồn vô tận:
"Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song."
Hình ảnh “điệp điệp” khắc họa sự buồn bã vô tận của con người, và từ “song song” gợi lên sự trải dài của những đợt sóng. Nỗi buồn của cái tôi trữ tình cứ nối tiếp nhau, không có hồi kết, như dòng sông vĩnh hằng.
"Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng."
Con thuyền giờ đây không còn xuôi theo dòng nước, mà như thể đang rời xa. Cành củi nhỏ trôi dạt, không biết sẽ đi về đâu, chỉ còn là sự lạc lõng giữa không gian mênh mông. Cảnh vật rộng lớn này phản chiếu tâm trạng cô đơn của cái tôi trữ tình.
"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều"
Những từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” khắc họa sự quạnh vắng, cô đơn của cảnh vật. Tiếng chợ chiều vẳng lại từ xa, nhưng không gian này vẫn đượm buồn và vắng lặng. Bước sang khổ thơ tiếp theo, sự chia ly càng trở nên rõ nét:
"Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng."
Cái tôi trữ tình như cánh bèo dạt trôi giữa dòng sông mênh mông, không một chuyến đò, không một người bạn đồng hành. Dù cảnh vật có chút tươi sáng với “bờ xanh” và “bãi vàng,” nhưng cái tôi vẫn cảm thấy lạc lõng, thiếu vắng tình thân. Huy Cận đã thổ lộ một nỗi niềm kín đáo qua những vần thơ này.
"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa,"
Giữa bầu không gian mênh mông, cánh chim nhỏ bay lạc giữa chiều tà, dường như bị nuốt chửng bởi sự bao la của thiên nhiên. Cảm giác ngợp vì không gian rộng lớn cũng là sự phản ánh nội tâm của thi sĩ.
"Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."
Giây phút này, cái tôi trữ tình bộc lộ khát khao mãnh liệt được trở về quê hương, mang theo niềm thương nhớ sâu sắc về đất nước. Bài thơ dần chuyển sang những rung động mãnh liệt đối với quê hương.
Huy Cận đã khéo léo kết hợp giữa chất liệu cổ điển và phong cách thơ mới, tạo nên một không gian vừa quen thuộc, vừa lạ lẫm. Cái tôi trữ tình của Huy Cận mang trong mình nỗi buồn da diết, khắc khoải về quê hương, một tình yêu quê hương thầm lặng nhưng cháy bỏng trong trái tim người thi sĩ tài hoa.

10. Bài phân tích cái tôi trữ tình trong bài thơ "Tràng giang" số 3
Huy Cận, một nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới, sở hữu cái “tôi” trữ tình riêng biệt, không thể lẫn vào đâu được. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ ông chất chứa nỗi buồn sâu lắng, ẩn chứa những tâm sự riêng tư về đời và đất nước. "Tràng giang" là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách ấy, thể hiện rõ nét cái tôi trữ tình của nhà thơ.
Bài thơ lấy cảm hứng từ hình ảnh con sông rộng lớn, qua góc nhìn tinh tế và mới mẻ, tác giả gửi gắm những tâm tư khó gọi tên. Lời đề tự “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” hé lộ cái tôi u uẩn, nặng trĩu sầu nhân thế. Hình ảnh dòng sông dài vô tận cùng bầu trời cao rộng khiến tác giả cảm thấy mình nhỏ bé, cô đơn giữa vũ trụ bao la. Người đọc dễ dàng cảm nhận được tâm tình riêng biệt, sâu sắc của Huy Cận khi nghĩ về cuộc đời và con người.
Giọng điệu man mác buồn cùng khung cảnh thiên nhiên mênh mông, đẹp nhưng ngập tràn nỗi cô liêu càng làm cho cái tôi của nhà thơ trở nên chơi vơi:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Bức tranh thiên nhiên ấy đẹp đẽ nhưng điểm xuyết hình ảnh “củi một cành khô” khiến nỗi buồn càng thêm man mác. Chỉ có tấm lòng đa sầu đa cảm mới cảm nhận được sự bàng hoàng, chơi vơi của nhà thơ khi bị thiên nhiên bao la như nuốt chửng. Cái tôi của Huy Cận trở nên lạc lõng, trôi dạt vô định giữa dòng đời rộng lớn. Qua từng câu chữ, ta cảm nhận được nỗi xót xa và thương cảm cho chính cuộc sống của ông.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
Ở đoạn này, bóng dáng và âm thanh của con người hiện diện yếu ớt như một điểm nhỏ nhoi giữa khung cảnh đầy phiền muộn. Hình ảnh “cồn nhỏ”, “chợ chiều”, “sông dài” như khắc sâu vào tâm hồn nhạy cảm của nhà thơ những dư vị nhạt nhẽo của đời sống. Huy Cận trải lòng gửi gắm nỗi buồn vào thiên nhiên đất trời, một nỗi buồn nhuốm đầy sự cô đơn cần được sẻ chia.
Ông cô độc trong chính cuộc đời mình, khi thiên nhiên rộng lớn bao trùm một nỗi buồn không thể trao gửi. Đây là nét cảm nhận độc đáo, đặc trưng cho phong cách thơ trước Cách mạng tháng Tám của Huy Cận.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Hình ảnh những cánh bèo trôi vô định trên dòng sông càng làm tâm hồn tác giả thêm phần cô đơn sâu thẳm. Huy Cận khao khát được yêu thương, che chở, nhưng thiên nhiên thờ ơ, lòng người lạnh lùng khiến ông rơi vào trạng thái tuyệt vọng. Đỉnh điểm của cái tôi trữ tình được đẩy lên qua những câu thơ cuối:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Tâm trạng thương nhớ quê hương thấm đẫm trong lòng tác giả, tạo nên cảm giác bơ vơ, chới với giữa chiều tà mênh mông. Tình cảm và tâm sự không nơi gửi gắm khiến nỗi buồn càng thêm sâu đậm.
Huy Cận với tấm lòng đa sầu đa cảm đã dệt nên một vần thơ đầy day dứt, khiến bản thân cũng như người đọc cảm nhận được sự hụt hẫng, trống trải. Nỗi buồn nối tiếp nỗi buồn, hòa quyện với thiên nhiên và cuộc sống, tạo nên dư vị buồn man mác khó phai.
Như vậy, cái tôi trữ tình trong "Tràng giang" đã chạm đến trái tim người đọc, khiến họ đồng cảm và thổn thức.

Có thể bạn quan tâm

5 loại thuốc nhuộm tóc tạm thời với màu sắc tuyệt đẹp, lên màu chuẩn mà không làm tổn hại đến tóc.

Cách phối đồng hồ và vòng tay để luôn nổi bật cho phái nữ

Sở hữu làn da mịn màng, vóc dáng thon thả với công thức sinh tố đu đủ

Hướng dẫn chi tiết cách xóa bình chọn Zalo trên cả điện thoại và máy tính

Khám phá cách chế biến món cá hồi sốt cam với lớp thịt cá mềm mịn, ngọt ngào hòa quyện cùng hương vị thơm ngon khó cưỡng.
