Top 10 bài văn xuất sắc phân tích nhân cách nhà nho chân chính qua bài thơ "Bài ca ngắn đi trên bãi cát" của Cao Bá Quát và "Bài ca ngất ngưởng" của Nguyễn Công Trứ (Ngữ văn 11)
Nội dung bài viết
1. Mẫu bài văn phân tích nhân cách nhà nho chân chính trong bài thơ "Bài ca ngắn đi trên bãi cát" hoặc "Bài ca ngất ngưởng" - bản mẫu số 4
Cao Bá Quát là thi nhân lỗi lạc với bản lĩnh kiên cường, được đương thời tôn vinh là thánh Quát. Thơ văn ông luôn mang tinh thần phê phán sâu sắc, lên án chế độ phong kiến bảo thủ, lạc hậu, đồng thời phản ánh khát vọng đổi thay mạnh mẽ của xã hội Việt Nam giữa thế kỷ XIX. Là người tài hoa nhưng lận đận trên con đường công danh, bài thơ "Bài ca ngắn đi trên bãi cát" chính là tiếng lòng bộc bạch sự mỏi mệt, chán chường của ông trên hành trình theo đuổi ước mơ lớn lao ấy. Qua đó, ta cảm nhận được tâm hồn đầy trăn trở và phẩm chất cao quý của một nhà nho chân chính trước thời cuộc bức bối.
Bài thơ được sáng tác trên hành trình dự thi Tiến sĩ tại kinh đô Huế – nơi tổ chức kỳ thi quan trọng bậc nhất thời phong kiến. Dù tài năng, Cao Bá Quát nhiều lần thất bại trong thi cử, con đường công danh trắc trở khiến ông kiệt sức và chán nản, dường như bước đi mãi mà vẫn như lùi, ánh mặt trời đã tắt, nhưng ông vẫn phải tiếp tục tiến bước.
"Bãi cát nối tiếp bãi cát dài,
Bước chân đi như rút lui từng bước."
Con đường dài, hiểm trở, mệt nhọc ấy không chỉ là thử thách vật lý mà còn là biểu tượng cho sự gian nan trên con đường thi cử và sự chông chênh trong tâm trạng của nhà thơ. Dù đi mãi không thấy đích đến, ông vẫn không từ bỏ khát vọng góp sức xây dựng đất nước.
"Mặt trời đã lặn, chưa dừng được,
Lữ khách rơi lệ trên hành trình.
Chưa học được phép tiên ông ngủ,
Trèo non lội suối, giận khôn nguôi!"
Ở đây, hình ảnh lữ khách rơi lệ là sự đồng cảm sâu sắc với chính số phận mình và cả vận mệnh đất nước đang ngổn ngang khó khăn. Tâm hồn Cao Bá Quát vừa kiên cường vừa u uất, mong ước thoát khỏi những trắc trở và đau đáu nỗi niềm thay đổi vận nước.
Ông cũng như bao nhà nho chân chính khác, không màng danh lợi hão huyền, khinh bỉ những kẻ chạy theo danh vọng phù hoa, nhưng vẫn không tránh khỏi bị sức hút của danh lợi cuốn hút.
"Xưa nay phường danh lợi,
Vội vã trên đường đời.
Men thơm đầu gió quán rượu,
Say bao người, tỉnh mấy ai?"
Qua những câu thơ ấy, nhà thơ đặt ra câu hỏi tự vấn, trăn trở về ý nghĩa con đường mình đã chọn, liệu ông có phải là người tỉnh táo giữa bao kẻ say mê danh lợi?
"Bãi cát dài nối tiếp bãi cát dài,
Tính sao đây? Đường mù mịt,
Đường hiểm trở còn nhiều lắm?"
Những câu hỏi dằn vặt, mông lung thể hiện sự bối rối và mỏi mệt sâu sắc, nhưng cũng chính là minh chứng cho ý chí bền bỉ của ông khi đứng trước muôn vàn thử thách.
"Hãy nghe ta hát khúc đường cùng,
Phía bắc núi Bắc muôn trùng,
Phía nam núi Nam sóng dào dạt,
Anh đứng làm chi trên bãi cát dài?"
Đứng trước khung cảnh hiểm trở, gian nan, nhà thơ vẫn kiên định không lùi bước, thể hiện nhân cách của một nhà nho chân chính với lòng yêu nước sâu sắc và khát khao cống hiến.
Qua bài thơ, Cao Bá Quát không chỉ bộc lộ tâm tư, nguyện vọng cá nhân mà còn khắc họa chân dung một nhà nho chân chính – người tài năng, trung kiên, dám đối mặt và vượt qua mọi thử thách để sống vì lý tưởng cao đẹp, góp phần đổi thay vận mệnh dân tộc.
Ngôn từ và nghệ thuật trong bài ca hành thật sắc sảo, tinh tế, khiến người đọc như cùng ông trải nghiệm từng bước chân trên bãi cát dài, cảm nhận trọn vẹn những bâng khuâng, trăn trở, thể hiện cốt cách thanh cao của một nhà nho chân chính giữa thời cuộc đầy biến động.

2. Nhân cách cao đẹp của nhà nho chân chính trong bài thơ "Bài ca ngắn đi trên bãi cát" hay "Bài ca ngất ngưởng" - mẫu số 5
“Nhất sĩ, nhì nông”
Trong xã hội phong kiến xưa, tầng lớp được kính trọng nhất chính là những người "sĩ", tức các nhà nho. Vậy họ là ai? Công việc và lối sống của họ ra sao? Hãy cùng khám phá nhân cách nhà nho chân chính qua hai tác phẩm Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát và Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ.
Nhân cách chính là phẩm chất, tư cách của con người. Nhà nho là những tri thức xưa theo Nho học, một hệ thống đạo đức, triết lý do Khổng Tử xây dựng nhằm kiến tạo xã hội thịnh trị. Những người tuân theo Nho giáo gọi là nhà nho, nho sĩ hay nho sinh – những người học sách thánh hiền, có học thức, biết lễ nghĩa, và thực hành “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, được trọng vọng vì dạy đời sống hợp luân thường đạo lý.
Nhân cách nhà nho chân chính bắt đầu từ việc biết “tu thân”, mà học vấn là nền tảng. Khổng Tử từng dạy: “Ta đi học là học cho ta, để gây cái phẩm giá của ta”. Mục đích học tập cũng để đỗ đạt qua thi cử và sau đó ra làm quan giúp nước giúp đời. Nguyễn Công Trứ trong Bài ca ngất ngưởng tự hào với những chức vị cao như Thủ khoa, Tham tán, Tổng đốc, Đại tướng hay Phủ doãn, thể hiện trách nhiệm và tài năng trong mọi công việc ông đảm nhận.
Nguyễn Công Trứ không chỉ là nhà nho hành đạo mà còn là nhà nho tài tử, coi trọng “tài” và “tình”. Ông không ngại ngông nghênh khác biệt, từng cưỡi bò vàng đeo nhạc về quê, phá vỡ chuẩn mực nhà nho truyền thống, thể hiện cá tính tự do và tinh thần phóng khoáng trong nghệ thuật sống và sáng tác.
Trong khi đó, Cao Bá Quát là nhà nho với tầm nhìn vượt thời đại, khao khát đổi mới xã hội. Qua Bài ca ngắn đi trên bãi cát, ông thể hiện sự chán ghét chế độ thi cử phong kiến lạc hậu, con đường công danh gian truân mỏi mệt, nhưng vẫn kiên định bước đi, dẫu biết “đi một bước như lùi một bước”, “mặt trời đã lặn, chưa dừng được”. Hình ảnh ấy như minh chứng cho tâm thế bế tắc, đấu tranh nội tâm giữa lòng nhiệt huyết và thực tại khắc nghiệt.
Cả Cao Bá Quát và Nguyễn Công Trứ đều là những nhà nho chân chính, mang trong mình tâm hồn trong sáng, khát vọng đổi thay và tài năng sáng tạo, dù sống trong xã hội đầy rẫy những bất công và thử thách. Tác phẩm của họ không chỉ là tiếng nói cá nhân mà còn là dấu ấn quan trọng góp phần làm nên diện mạo mới cho Nho học Việt Nam.

3. Phân tích nhân cách nhà nho chân chính qua bài thơ "Bài ca ngắn đi trên bãi cát" và "Bài ca ngất ngưởng" - mẫu 6
Có những nhà thơ, nhà văn một thời nay chỉ còn là dấu tích trong ký ức, nhưng vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của họ vẫn sáng ngời theo dòng chảy thời gian. Điều này càng rõ nét qua hai tác phẩm "Bài ca ngắn đi trên bãi cát" của Cao Bá Quát và "Bài ca ngất ngưởng" của Nguyễn Công Trứ – những khúc ca sâu sắc phản ánh nhân cách nhà nho chân chính.
Nhân cách ấy trước hết được thể hiện qua quan điểm về con đường danh lợi. Cao Bá Quát thốt lên đầy chán chường:
“Bãi cát dài bãi cát dài ơi
Đi một bước như lùi một bước
Mặt trời đã lặn chưa dừng được
Lữ khách trên đường nước mắt rơi”
Đường danh lợi với ông là con đường trắc trở, dài dằng dặc, đẫm bao mồ hôi, nước mắt của người trí thức. Sự thất vọng không phải vì ông thiếu tài mà do xã hội suy thoái, chế độ bất cập khiến tài năng như ông không thể toả sáng. Hình ảnh bãi cát rộng lớn cùng bóng người mệt mỏi miêu tả thành công cuộc hành trình gian nan, khắc nghiệt trên con đường danh vọng ấy.
Ngược lại, Nguyễn Công Trứ dù thành công trên con đường quan lộ nhưng vẫn cảm thấy bị gò bó, tựa như “vào lồng”, như lời ông:
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”
Ông thể hiện sự tự nhận thức về sự gò bó trong quan trường dù đạt nhiều danh vị cao sang. Dù vậy, con đường ấy vẫn là lựa chọn bắt buộc của tầng lớp nhà nho đương thời, nơi học vấn và thi cử được xem là con đường duy nhất đến với vinh quang.
Cả hai nhà thơ để lại dấu ấn riêng biệt qua phong cách sống và tư tưởng. Cao Bá Quát với quan niệm tiến bộ, dám thoát khỏi vòng xoáy danh lợi, dám chọn con đường riêng để hướng tới cuộc sống tự do, hạnh phúc, là biểu tượng của nhà nho chân chính với tầm nhìn vượt thời đại.
Nguyễn Công Trứ thì toả sáng với bản lĩnh cá nhân, sự tự do, phóng khoáng, không màng thị phi, sống thật với chính mình, mặc dù luôn giữ vững vị trí người quan tận tâm vì dân vì nước. Ông “ngất ngưởng” tự tin giữa cuộc đời, tự hào về tài năng và thành quả mình đạt được, đồng thời không ngại thể hiện cái tôi cá nhân vượt lên trên dư luận.
Chính sự khác biệt trong phong cách, cách nhìn và thái độ sống ấy đã làm nên nét đẹp nhân cách nhà nho chân chính qua hai tác phẩm, đồng thời trở thành những biểu tượng văn hóa – thẩm mỹ sâu sắc của con người Việt Nam trong một thời đại đã xa nhưng vẫn còn nguyên giá trị nhân văn và truyền cảm hứng.

4. Nhân cách nhà nho chân chính trong bài thơ "Bài ca ngắn đi trên bãi cát" hoặc "Bài ca ngất ngưởng" - mẫu 7
Khi nhắc đến Cao Bá Quát, hình ảnh ông hiện lên với hai phẩm chất cao quý: tài hoa và khí phách. Trong hành trình làm nho gia, ông không ngừng vượt qua những tư tưởng cổ hủ để tìm cho mình con đường riêng, đầy sáng tạo và dũng cảm thoát khỏi những khuôn phép nghiêm ngặt. Cao Bá Quát chính là biểu tượng của nhà nho chân chính trong xã hội đương thời, luôn khao khát sống khác biệt, khẳng định bản thân bằng những tư tưởng đổi mới vượt thời đại. Tác phẩm "Sa hành đoản ca" chính là minh chứng cho điều đó.
Xuất thân từ gia đình truyền thống Nho học, Cao Bá Quát từng cố gắng học hành, thi cử để làm rạng danh tổ tiên. Tuy nhiên, tư tưởng tự do và phóng khoáng của ông khiến bài thi mang dấu ấn khác biệt, không phù hợp với khuôn khổ phong kiến, dẫn đến những thất bại trong thi cử. Điều này chứng tỏ ông có bản lĩnh đương đầu với cái cũ và khát vọng thay đổi xã hội, dù ý chí ấy còn manh nha, chưa thành hệ thống.
Sự kiên trì của ông thể hiện rõ qua việc bền bỉ đến Huế dự thi đến chín lần, dù chưa thành công. Từ đó, Cao Bá Quát nhận ra sự vô nghĩa của con đường danh lợi truyền thống và không ngần ngại gọi đó là "phường danh lợi". Tư tưởng này phản ánh tấm lòng phóng khoáng và trí tuệ sâu sắc của ông, khi mà nhiều người vẫn đắm chìm trong ham muốn danh vọng.
Quan niệm về nhà nho chân chính trong ông chính là lòng yêu nước thương dân, khát khao cống hiến chân thành cho dân tộc. Công danh không phải để thỏa mãn tham vọng cá nhân, mà là bước đệm để hành đạo giúp đời. Khí tiết là yếu tố cốt lõi, luôn được giữ gìn dù trong hoàn cảnh nào, chống lại sự đồi trụy và cám dỗ, tạo nên nhân cách đích thực của nhà nho.
"Sa hành đoản ca" cho thấy tâm hồn tự do, phóng khoáng của ông qua thể ca hành linh hoạt. Mặc dù chọn con đường công danh như nhiều nhà nho khác, ông nhận thức sâu sắc sự bế tắc và lạc hậu của xã hội, từ đó khao khát thoát khỏi "bãi cát" danh vọng đầy khổ cực. Với ông, danh vọng giống như thứ rượu mạnh làm say mê, mê hoặc người ta, khiến nhiều kẻ không thể tỉnh ngộ. Chính khao khát đổi thay xã hội ấy làm nên nhân cách cao đẹp và tầm vóc của một nhà nho chân chính.

5. Nhân cách nhà nho chân chính trong tác phẩm "Bài ca ngắn đi trên bãi cát" và "Bài ca ngất ngưởng" - mẫu 8
Nguyễn Công Trứ là người học rộng tài cao, từng đảm nhận nhiều chức quan trọng trong triều đình. Dù gặp không ít sóng gió, thăng trầm trên con đường công danh, ông vẫn giữ vững khí chất của một nhà nho chân chính với lối sống “ngất ngưởng” độc đáo. Vẻ đẹp nhân cách ấy được thể hiện sâu sắc qua tác phẩm Bài ca ngất ngưởng.
Nhân cách là phẩm chất đạo đức, tư cách của con người; với nhà nho, đó là việc “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Nguyễn Công Trứ đã hiện thực hóa điều này qua suốt cuộc đời làm quan và cả khi cáo quan về hưu.
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc Bình Tây cờ đại tướng
Có khi về phủ doãn Thừa Thiên.”
Ông khẳng định mình gánh vác trách nhiệm trời đất, dù sự nghiệp quan trường gò bó, mất tự do như “vào lồng”. Những chức vụ lớn ông từng giữ như Tham tán, Tổng đốc Đông, Đại tướng Bình Tây… đều thể hiện trách nhiệm và lòng tận tụy của ông với đất nước. Dù biết sự tự do là đánh đổi, ông vẫn cam lòng để cống hiến trọn vẹn “chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây”.
Không như các nhà nho khiêm nhường, ông sẵn sàng thể hiện cá tính, bản lĩnh qua câu thơ “Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng”, thể hiện sự tự tin và không ngần ngại chỉ trích những kẻ bất tài, hám danh. Tuy nhiên, sự khác biệt của ông cũng khiến con đường quan trường nhiều thăng trầm, bị ghét bỏ và chống đối. Khi cáo quan, ông sống tự do, phóng khoáng như chim bay khỏi lồng, thể hiện qua hình ảnh cưỡi bò vàng đeo nhạc ngựa, sống tự tại bên núi Đại với mây trắng bao phủ.
Ông dám sống phá cách, ngang tàng đến mức “bụt cũng phải cười ông ngất ngưởng”, đồng thời thản nhiên với mọi khen chê, vui sống theo ý mình: “Được mất dương dương người thái thượng / Khen chê phơi phới ngọn đông phong.”
Khổ thơ cuối là lời khẳng định lòng trung với vua và đạo vua tôi, phẩm chất quý giá của nhà nho chân chính: “Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú / Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung / Trong triều ai ngất ngưởng như ông.” Ông đã dành trọn đời vì nước, xứng đáng là hình mẫu nhà nho chân chính với phong cách “ngất ngưởng” khác biệt, đầy cá tính.
Bài Bài ca ngất ngưởng thể hiện rõ nét nhân cách nhà nho chân chính, đề cao lòng trung quân, bản lĩnh vượt ra khỏi khuôn khổ nhưng vẫn vẹn tròn đạo nghĩa với vua và nước, tạo dấu ấn đặc biệt trong văn học truyền thống.

6. Nhân cách nhà nho chân chính qua bài thơ "Bài ca ngắn đi trên bãi cát" và "Bài ca ngất ngưởng" - mẫu 9
Nguyễn Công Trứ, người hội tụ tài năng, chí khí và đức hạnh, xuất thân từ dòng dõi Nho gia truyền thống. Từ thuở nhỏ, ông đã miệt mài học tập kinh điển thánh hiền, từng bước thi cử đỗ đạt và đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng dưới triều Nguyễn. Không chỉ là vị quân sư, nhà chính trị lỗi lạc, ông còn là nhà thơ tài hoa, dùng thơ ca làm phương tiện tỏ bày chí hướng và khẳng định bản thân. Trong số các tác phẩm, "Bài ca ngất ngưởng" nổi bật như một lời tự thuật ngắn gọn mà sâu sắc, thể hiện rõ nét nhân cách nhà Nho chân chính nhưng cũng đầy cá tính, vượt lên trên khuôn phép lễ giáo, tạo nên một dấu ấn đặc trưng không lẫn vào đâu được của Nguyễn Công Trứ.
“Bài ca ngất ngưởng” không chỉ là bản tổng kết cuộc đời mà còn là tuyên ngôn về con người Hi Văn với phong cách sống ngang tàng, thật thà và phóng khoáng. Qua đó, hình ảnh một nhà Nho chân chính hiện lên rõ nét với quan điểm sống tiến bộ, xứng đáng được người đời ngưỡng mộ và noi theo. Nhà Nho, theo truyền thống Nho giáo, là những trí thức trung thành với đạo đức và triết lý Khổng Tử, hướng tới xây dựng xã hội công bằng, tốt đẹp. Nhân cách, tức phẩm chất đạo đức và tư cách làm người, chính là nền tảng tạo nên giá trị cao quý của con người. Vậy nhân cách nhà Nho chân chính được Nguyễn Công Trứ thể hiện ra sao trong tác phẩm của mình?
Đầu tiên, nhà Nho chân chính phải có "Chí làm trai" – sứ mệnh cao cả với vận mệnh đất nước và xã hội. Từ câu mở đầu, ông đã khẳng định: “Vũ trụ nội mạc phi phận sự”, nghĩa là mọi việc trên đời đều là phận sự của chính ta. Tư tưởng ấy, ông đã nhiều lần nhắc lại qua các tác phẩm như “Gánh trung hiếu” hay “Luận kẻ sĩ”, thể hiện trách nhiệm sâu sắc của người trí thức đối với vận mệnh dân tộc, nối tiếp truyền thống các bậc anh hùng như Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Thứ hai, nhân cách nhà Nho chân chính thể hiện qua việc “tu thân” – cốt lõi trong ba việc “tu thân, trị quốc, bình thiên hạ” của Nho gia. Việc học hành, thi cử là con đường để phụng sự quốc gia, dân tộc. Nguyễn Công Trứ không chỉ dừng lại ở tri thức mà còn gắn bó đời mình với nhiều trọng trách lớn trong triều, được tóm gọn qua bốn câu thơ:
“Khi thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc bình Tây, cờ đại tướng
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”.
Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng từ Thủ khoa xuất sắc đến Tham tán đại thần, Tổng đốc và Đại tướng, đóng góp không nhỏ trong việc khai hoang, trị thủy và trấn áp tệ nạn xã hội. Mọi việc ông làm đều thể hiện tinh thần trách nhiệm và hiệu quả cao, mở rộng con đường công danh cho đến khi ông tự ý cáo quan về hưu – khoảnh khắc đánh dấu tự do thực sự của ông. Dù theo truyền thống Nho giáo cần khiêm tốn, ông lại tự tin khẳng định tài năng của bản thân, mạnh dạn phá vỡ giới hạn cũ kỹ của Nho học.
Nhà Nho chân chính không chạy theo danh lợi, không vướng bận vinh hoa phú quý mà lập thân vì nước vì dân. Cũng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm từng chọn con đường cáo quan khi triều đình hỗn loạn, Nguyễn Công Trứ nhẹ nhàng nhìn nhận các chức vị chỉ là phận sự của một bề tôi đứng trong vũ trụ. Ông từng nói: “Làm tổng đốc tôi không lấy làm vinh, làm lính tôi cũng không coi là nhục”, minh chứng cho thái độ bình thản trước danh vọng và quyền lực. Cái tôi “ngất ngưởng” trong bài thơ chính là biểu tượng cho tính cách khác biệt, tự do và dám sống thật với chính mình.
Khác với nhiều nhà Nho đặt trọn tâm huyết vào con đường quan trường, Nguyễn Công Trứ khi đã hoàn thành nhiệm vụ với đất nước, đã chọn cho mình cuộc sống phóng khoáng, tận hưởng thú vui đời với quan niệm “cuộc đời hành lạc chơi đâu là lãi đấy”. Ông tự do thoát khỏi xiềng xích của chức quan, sống theo cách riêng với phong thái ngông nghênh chưa từng có, thể hiện rõ qua hình ảnh độc đáo:
“Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng”
Không theo khuôn phép, ông tự tin hưởng thú vui trong những nơi thanh tịnh, thậm chí là nơi cửa Phật, nhưng vẫn sống thật với bản thân, không bị ràng buộc bởi lễ giáo nghiêm ngặt:
“Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay Kiếm tay cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”
Câu thơ thể hiện sự đối lập hài hòa trong nhân cách nhà Nho – vừa cầm kiếm tay cung vừa mang lòng từ bi, vừa sống ở trần gian nhưng tâm hồn bay bổng, tự do. Ông xem nhẹ mọi được mất, tiếng khen tiếng chê trong đời:
“Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không tiên, không vướng tục”
Với tâm hồn rộng mở và phong cách sống khác biệt, ông ngang nhiên đứng ngang hàng với các danh nhân lỗi lạc Trung Hoa trong lòng tự hào dân tộc:
“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông”
Dù sống phóng túng, song Nguyễn Công Trứ vẫn là nhà Nho chân chính, giữ trọn đạo vua tôi, cống hiến cho nước nhà và tự do tận hưởng cuộc sống theo cách riêng. Cùng với Cao Bá Quát – một nhà Nho chân chính khác với tư tưởng đổi mới, phản kháng xã hội phong kiến suy tàn, hai con người đã làm nên hình ảnh mới mẻ, đa dạng của nhân cách nhà Nho thời đại cũ.

7. Nhân cách nhà nho chân chính trong "Bài ca ngắn đi trên bãi cát" hoặc "Bài ca ngất ngưởng" - Mẫu 10 thể hiện sự kết tinh độc đáo của đạo đức và tâm hồn, nơi những con người tài hoa kiên cường vươn lên giữa đời thường, khẳng định cái tôi tự do và phẩm chất cao quý không bao giờ phai nhạt trong văn học dân tộc.
Nguyễn Công Trứ, xuất thân trong dòng dõi nhà Nho nghèo khó cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, trải qua cuộc đời đầy sóng gió thăng trầm, "lên thác xuống ghềnh". Ông là người đa tài, am hiểu sâu rộng về quân sự và khoa học, từng giữ nhiều chức quan trọng nhưng cũng nhiều lần bị giáng chức, cho thấy chốn công danh như trò chơi vô thường. Chính cái thái độ "ngất ngưởng" ấy làm nổi bật hình ảnh một nhà Nho chân chính, không theo lối mòn khuôn mẫu trong "Bài ca ngất ngưởng". Theo quan niệm truyền thống, nhà Nho là người học rộng, có tài đức và phẩm hạnh toàn vẹn. Nguyễn Công Trứ thấm nhuần tinh thần ấy qua giáo dục Nho học từ gia đình, nhưng đồng thời ông cũng phá vỡ giới hạn ấy bằng cá tính và lối sống riêng biệt.
"Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc Bình Tây cờ đại tướng
Có khi về phủ doãn Thừa Thiên."
"Bài ca ngất ngưởng" – thể ca trù đặc sắc, được Nguyễn Công Trứ sáng tạo bằng cách kết hợp chữ Hán và chữ Nôm, khẳng định mọi việc trong trời đất đều là phận sự của bản thân ông. Ông từng đỗ đạt và giữ nhiều chức vụ quan trọng, nhưng vẫn dùng hình ảnh "vào lồng" làm quan để nói lên sự gò bó, hạn chế của cuộc sống quan trường. Tự tin, ngang tàng, ông tự nhận tài thao lược "ngất ngưởng", vượt lên trên khuôn phép Nho gia và dám thể hiện cái tôi khác biệt giữa xã hội phong kiến đầy ràng buộc và tranh chấp quyền lực. Những lần thăng giáng trong quan trường chỉ là trò chơi, cuối cùng ông chọn về quê sống tự do.
"Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng."
Khi cáo quan năm 1848, ông trở về núi Đại Nại, nơi phong cảnh như chốn bồng lai tiên cảnh. Không theo lối tu hành nghiêm ngặt, ông đưa theo các cô hầu ca hát, đánh đàn trong chốn thiêng liêng khiến Bụt cũng phải mỉm cười trước cái chất ngông, cái phong cách "ngất ngưởng" độc đáo ấy. Ông tự do sống, không vướng tục lụy với tâm thế thoát tục, tự tại:
"Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không tiên, không vướng tục."
Quan niệm sống của ông phóng khoáng, coi nhẹ được mất, khen chê như gió đông thoảng qua:
"Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong."
Kết thúc bài thơ, ông tự hào đặt mình ngang hàng với những danh nhân lỗi lạc trong lịch sử, khẳng định phong cách "ngất ngưởng" của mình là duy nhất trong triều đình:
"Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Trong triều ai ngất ngưởng được như ông."
Cùng với suy nghĩ khác biệt ấy, Cao Bá Quát trong "Sa hành đoản ca" cũng bày tỏ thái độ coi thường danh lợi trong xã hội phong kiến thối nát. Cả hai nhân vật đều tạo nên diện mạo mới cho nhân cách nhà Nho chân chính, vượt khỏi những ràng buộc cũ kỹ, với cá tính mạnh mẽ và tầm nhìn sáng suốt.

Nhắc đến nhà Nho là nhớ về một thời vang bóng, một biểu tượng của trí tuệ và phẩm giá. Dù xã hội hiện đại xem đó như ký ức, giá trị nhân cách ấy vẫn luôn tỏa sáng bền vững trong tâm hồn mỗi người. Qua hai tác phẩm "Bài ca ngắn đi trên bãi cát" của Cao Bá Quát và "Bài ca ngất ngưởng" của Nguyễn Công Trứ, nhân cách nhà Nho chân chính hiện lên sâu sắc, lay động lòng người.
Nhân cách ấy chính là tư cách và phẩm giá của con người. Nhà Nho xưa, những người tri thức uyên thâm theo Nho học, được kính trọng vì am hiểu lễ nghĩa và trách nhiệm với đất nước. Điểm chung trong quan niệm của hai tác giả là cái nhìn về con đường danh lợi – một hành trình gian nan đầy thử thách, nhưng cách thể hiện thì mỗi người một sắc thái.
“Bãi cát dài bãi cát dài ơi
Đi một bước như lùi một bước
Mặt trời đã lặn chưa dừng được
Lữ khách trên đường nước mắt rơi”
Cao Bá Quát bộc lộ nỗi chán chường, bi quan trước con đường danh lợi gập ghềnh, như đi trên bãi cát dài vô tận. Đó không chỉ là cuộc hành trình công danh mà còn là nỗi xót xa trước xã hội suy đồi. Trong khi đó, Nguyễn Công Trứ lại có cái nhìn khác:
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”
Dù thành công trong sự nghiệp quan trường, ông vẫn cảm nhận sự gò bó trong khuôn khổ xã hội. Từ “vào lồng” biểu thị cái cảnh giới bị giới hạn, không tự do trong vòng danh lợi. Nhưng khác với sự bi quan của Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ thể hiện sự tự tin và phóng khoáng:
“Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.”
Ông ngạo nghễ với phong cách khác biệt, tự hào về những thành tựu và không bận tâm lời đàm tiếu. Hình ảnh ông cưỡi bò vàng đeo nhạc, điềm nhiên trước cảnh sắc thần tiên, với lối sống phóng khoáng, tự do, tạo nên một dấu ấn đặc sắc trong lòng dân gian. Đó là cái tôi cá nhân mạnh mẽ, là tinh thần nhà Nho chân chính không chịu gò bó trong khuôn khổ cũ kỹ.
Qua hai bài ca, vẻ đẹp nhân cách nhà Nho chân chính được tái hiện đầy sức sống, mỗi tác giả một góc nhìn riêng nhưng cùng chung tinh thần và dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc.

9. Nhân cách nhà nho chân chính trong hai bài thơ "Bài ca ngắn đi trên bãi cát" và "Bài ca ngất ngưởng" thể hiện sâu sắc tư cách và phẩm giá của người trí thức. Qua đó, hình ảnh nhà nho không chỉ là biểu tượng của trí tuệ và đạo đức mà còn là sự khẳng định cái tôi cá nhân, sự khác biệt và sức sống phóng khoáng vượt lên trên những chuẩn mực cứng nhắc của xã hội phong kiến xưa.
Chúng ta thường nghe câu: "Tài cao phận thấp, chí khí uất", như lời ngậm ngùi về một tài năng chưa thể tỏa sáng vì định mệnh chưa thuận. Cao Bá Quát, bậc tài hoa kiệt xuất, hiện lên như một nhà nho đức độ với tâm hồn trong sáng và khí phách thanh cao, được nhân dân tôn vinh là thánh Quát. Thế nhưng, trong hoàn cảnh xã hội phong kiến suy tàn, ông đã trải qua biết bao gian truân và bi ai, chất chứa trong tác phẩm "Sa hành đoản ca" những nỗi niềm uất hận kín đáo của một bậc nam nhi.
Là nhà nho chính trực, Cao Bá Quát mang trong mình tư tưởng "chí làm trai" sâu sắc. Cũng như Nguyễn Công Trứ và nhiều bậc trượng phu đương thời, ông khát khao lập nên sự nghiệp vẻ vang, xem đó là lý tưởng và trách nhiệm suốt đời. Từ tuổi thanh xuân, ông đã chứng tỏ khí phách và hoài bão lớn lao, nhưng đứng trước xã hội bảo thủ và trì trệ, khát vọng ấy mãi không thể toại nguyện.
Bãi cát dài lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước.
"Bài ca ngắn đi trên bãi cát" như một khúc ca ngắn vẽ nên hành trình dài, hình ảnh bãi cát mênh mông với bóng người nhỏ bé bước đi chậm chạp, đi mà như lùi, biểu tượng cho con đường thi cử gian nan và đầy thử thách của chính tác giả. Suốt nhiều năm tháng, Cao Bá Quát thi không biết bao lần mà kết quả vẫn là thất bại, không phải vì thiếu tài mà vì cá tính ngông nghênh không hòa hợp với triều đình. Câu thơ vang lên như tiếng thở dài u uất, chán nản trước thực tại và sự thoái hóa của chế độ cũ.
Mặt trời đã lặn chưa dừng được,
Lữ khách trên đường nước mắt rơi.
Hình ảnh mặt trời lặn gợi thời gian trôi qua, còn người lữ khách vẫn chưa thể ngừng bước vì con đường quá dài và đích đến quá xa vời. Cao Bá Quát cô đơn giữa sa mạc rộng lớn, nước mắt rơi vì tâm sự thẳm sâu, giọt lệ ấy trở nên mặn mà hơn bởi nỗi lòng nặng trĩu. Ông không cho phép mình ngừng nghỉ dù khó khăn chồng chất.
Không học được tiên ông phép ngủ,
Trèo non, lội suối giận khôn vơi.
Ông tự giận bản thân vì chưa thể đem tài giúp dân giúp nước, chưa thực hiện trọn vẹn lý tưởng "nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung". Lòng tự trọng và chí khí của một nhà nho chân chính dấy lên, thể hiện rõ qua sự hổ thẹn vì chưa có danh vị xứng đáng. Dẫu giận, ông vẫn giữ tấm lòng thanh cao và khí phách hiên ngang trong thơ văn.
Ta ngẩng đầu lên nhìn tận ngoài trời
Những muốn vịn mây mà lên cao mãi.
Ông ao ước có phép thần tiên để tiếp tục bền bỉ trên con đường gian nan, vượt qua mọi thử thách, mong tìm được đích đến sáng rõ. Ý chí ấy là sự thoát li khỏi thực tại tầm thường, một thái độ không chịu khuất phục trước số phận. Cao Bá Quát không muốn trốn tránh mà luôn đối mặt, quyết tâm vượt khó.
Xưa nay, phường danh lợi,
Tất cả trên đường đời.
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vô số, tỉnh bao người?
Ông nhìn nhận con đường danh lợi như thứ cám dỗ khiến người đời say mê, bỏ quên đạo đức và lẽ phải. Giữa biển người mịt mờ, ông tự nhận mình là kẻ tỉnh táo hiếm hoi, nhưng vẫn không thoát khỏi vòng xoáy ấy. Lời thơ thể hiện sự chán ngán, mệt mỏi, đồng thời là câu hỏi day dứt: "tính sao đây?" trước thử thách chông gai của cuộc đời.
Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt,
Đường ghê sợ còn nhiều đâu ít.
Hãy nghe ta hát khúc "đường cùng",
Phía Bắc núi Bắc, núi muôn trùng,
Phía Nam núi Nam, sóng dào dạt.
Tiếng thở dài mệt mỏi bộc lộ sự bế tắc khi đối mặt với bao thử thách chồng chất. Ông đứng giữa "đường cùng" của cuộc đời, không biết lối đi nào sáng rõ. Nhưng tiếng gọi từ tình yêu nước và trách nhiệm thúc giục ông không từ bỏ, dù bi kịch của cá nhân cũng là bi kịch chung của thời đại sắp tàn.
Anh đứng làm chi trên bãi cát?
Câu hỏi vang vọng giữa sa mạc rộng lớn như lời thúc giục đi tìm lối thoát mới, khởi xướng con đường cải cách xã hội, thể hiện khát vọng và nhân cách cao đẹp của nhà nho chân chính Cao Bá Quát. "Bài ca ngắn đi trên bãi cát" là khúc ca ngắn mà dài, hiện thực mà giàu biểu tượng, chứa đựng tâm tình sâu sắc, khí phách anh hùng và ước vọng cải cách thời cuộc của một danh sĩ vượt thời gian.

10. Nhân cách nhà nho chân chính trong bài thơ "Bài ca ngắn đi trên bãi cát" hoặc "Bài ca ngất ngưởng" - mẫu 3
"Đi một bước như lùi một bước"
Hình ảnh "bãi cát" như một bóng ma ám ảnh không nguôi, mở ra không gian vô định mênh mông, khiến tác giả lạc lõng và mất kiên nhẫn. Hình tượng ấy không chỉ là hình ảnh thực mà còn là ẩn dụ sâu sắc cho con đường công danh đầy cát bụi, mịt mù, như chính con đường đời gập ghềnh của xã hội phong kiến lạc hậu. Những khó khăn và bế tắc trên con đường ấy được tác giả thể hiện rõ nét qua từng câu thơ:
"Mặt trời đã lặn, chưa dừng được
Lữ khách trên đường nước mắt rơi"
Dù nhận biết ngày tàn đã đến, ông vẫn không thể ngừng bước vì đích đến quá xa vời. Cao Bá Quát khắc họa trạng thái kiệt sức, lo âu pha trộn cùng nỗi buồn thầm kín. Giữa bãi cát dài vô tận, hình bóng cô đơn, lạc lõng của người lữ khách hiện lên rõ ràng. Con đường danh lợi gian nan khiến ông vừa phẫn uất vừa tự trách mình, đồng thời bộc lộ nỗi khao khát giải thoát:
"Không học được tiên ông phép ngủ
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!
Xưa nay phường danh lợi
Tất tả trên đường đời.
Đầu gió hơi men thơm quán rượu
Người say vô số tỉnh bao người?"
Tác giả ví von những kẻ chạy theo danh lợi như những người say rượu chen chúc trong quán xá, bị cám dỗ bởi thứ men rượu đời. Dù biết đó là điều phù phiếm, nhưng hầu như không ai có thể thoát khỏi. Qua đó, Cao Bá Quát nhận ra con đường danh lợi mà ông đang đi là vô nghĩa, đã bị xã hội phong kiến làm mục nát, tha hóa. Tại sao phải ganh đua tranh giành chốn quan trường? Sự day dứt ấy xuất phát từ nhân cách cao quý, coi thường phù hoa, vinh lợi. Giống như nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm từng viết:
"Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao"
(Nhàn)
Thế nhưng, dù biết con đường ấy là vô nghĩa, ông vẫn bị ràng buộc bởi xã hội phong kiến, không dễ dàng rẽ bước. Tiếng thở dài ngao ngán vang lên trong tâm hồn đầy băn khoăn:
"Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt
Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít?
Hãy nghe ta hát khúc 'đường cùng'
Phía Bắc núi Bắc, núi muôn trùng
Phía Nam núi Nam, sóng dào dạt."
Giữa bao thử thách, Cao Bá Quát bế tắc không biết nên dừng bước hay tiếp tục hành trình. Dù hiểu rõ đây là con đường đầy cạm bẫy, ông vẫn không thể rời bỏ. Câu hỏi cuối cùng vang lên tràn đầy trăn trở và mong mỏi một lối đi mới:
"Anh đứng làm chi trên bãi cát?"
Đó là lời tự vấn, lời kêu gọi hướng đến sự thay đổi. Cao Bá Quát thể hiện mong muốn vượt lên những định kiến cũ kỹ, tìm kiếm con đường mới cho bản thân và đất nước. Câu thơ "Nhất sinh đê thủ bái mai hoa" khẳng định tấm lòng trong sáng, cao quý, chỉ cúi đầu trước sự thuần khiết của hoa mai, không chịu khuất phục trước quyền lực. Thể thơ uyển chuyển, hình ảnh giàu ý nghĩa cùng phép điệp khiến "Sa hành đoản ca" đọng lại sâu sắc, thể hiện tài năng và khí phách "Thánh Quát".
Tóm lại, bài thơ thể hiện thái độ khinh miệt xã hội mục nát và khát vọng đổi thay mãnh liệt. So với Nguyễn Công Trứ, người giữ truyền thống Nho giáo và lòng trung quân, Cao Bá Quát như luồng gió mới, với tư tưởng khai sáng, khao khát phá bỏ trì trệ. Nhân cách nhà nho chân chính của ông bộc lộ qua tấm lòng ngay thẳng, coi thường danh lợi, luôn tự vấn ý nghĩa cuộc đời và mong muốn cống hiến trọn vẹn cho non nước.
Qua "Bài ca ngắn đi trên bãi cát", ta thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn và phẩm cách Cao Bá Quát – nhà nho tận tụy, không ngại gian khó, giữ gìn sự trong sạch, đồng thời mở đường mới cho xã hội còn nhiều bóng tối và lạc hậu.

Có thể bạn quan tâm

Hoa nghệ tây - Biểu tượng cho tình yêu vĩnh cửu, sự đam mê nồng cháy và những cảm xúc thuần khiết nhất. Loài hoa này mang đến một vẻ đẹp mê hoặc, lôi cuốn lòng người.

Sữa rửa mặt Dove: Liệu có thực sự tốt? Mức giá như thế nào?

Hướng dẫn cách làm sốt tiêu đen, món gia vị hoàn hảo cho bít tết bò hoặc cua, đem đến hương vị đậm đà khó quên.

Top 10 cửa hàng hoa uy tín và chất lượng nhất Đà Nẵng

7 loại cây cảnh không nên đặt trong nhà, đặc biệt là nơi có trẻ nhỏ, vì có thể gây ra những rủi ro không đáng có.
