Top 10 phân tích xuất sắc nhất về 'Thu vịnh' - Kiệt tác thơ thu Nguyễn Khuyến (Ngữ văn 8 - SGK Kết nối tri thức)
Nội dung bài viết
Phân tích 'Thu vịnh' - Mẫu 4: Khám phá tinh hoa thơ thu Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến - bậc thầy thơ Nôm với ngòi bút tài hoa khắc họa hồn quê Việt. Qua chùm thơ thu đặc sắc (Thu điếu, Thu vịnh, Thu ẩm), ông dựng nên bức tranh thu đầy tâm tư, vừa đẹp đẽ trữ tình lại thấm đẫm nỗi niềm dân tộc.
'Thu vịnh' mở ra bằng khung trời thu 'xanh ngắt mấy từng cao', nơi cần trúc 'lơ phơ' đong đưa trong làn gió hắt hiu. Hai câu thơ đầu như bức họa thủy mặc với đường nét giản dị mà chứa chan tâm trạng. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đưa người đọc vào không gian thu vừa thực vừa mộng, nơi mỗi cảnh vật đều thấm đẫm nỗi u hoài của thi nhân.
'Nước biếc' phủ khói sương cùng ánh trăng len lỏi qua 'song thưa' tạo nên sự hòa điệu kỳ diệu giữa thiên nhiên và con người. Đến hai câu luận, hình ảnh 'hoa năm ngoái' và tiếng ngỗng trời vang vọng càng khắc sâu nỗi niềm thời thế. Kết thúc bằng nỗi 'thẹn với ông Đào', bài thơ khép lại mà để ngân vang mãi tấm lòng yêu nước thầm kín nhưng mãnh liệt của Tam Nguyên Yên Đổ.

Phân tích 'Thu vịnh' - Mẫu 5: Khám phá vẻ đẹp thiên nhiên và tâm tư Nguyễn Khuyến qua lăng kính thơ thu đặc sắc
Nguyễn Khuyến - bậc thầy của thơ Nôm - đã dệt nên bức tranh thu quê hương với vẻ đẹp thanh cao, đậm hồn Việt. Qua 'Thu vịnh', thi nhân không chỉ khắc họa cái hồn thu đất Bắc với trời 'xanh ngắt', cần trúc 'lơ phơ', mà còn gửi gắm nỗi niềm u uẩn của kẻ sĩ trước thời cuộc.
Bài thơ mở ra không gian thu thăm thẳm: 'Trời thu xanh ngắt mấy từng cao/Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu'. Màu xanh ngắt của trời thu, dáng 'lơ phơ' của cần trúc trước gió heo may đã trở thành biểu tượng bất hủ của mùa thu đồng bằng Bắc Bộ. Cảnh sắc tiếp nối với 'nước biếc' phủ khói sương, ánh trăng thu lọt qua 'song thưa', tạo nên bức tranh thủy mặc đầy thi vị.
Đặc biệt, hai câu 'Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái/Một tiếng trên không ngỗng nước nào?' đã đưa thời gian vào trong thơ, khiến nỗi buồn thu trở nên miên viễn. Kết thúc bằng nỗi 'thẹn với ông Đào', Nguyễn Khuyến đã bộc lộ tâm sự sâu kín của một trí thức nặng lòng với non sông nhưng bất lực trước thời thế.
Qua 'Thu vịnh', chúng ta không chỉ thấy một Nguyễn Khuyến tài hoa trong nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, mà còn cảm nhận được tấm lòng thiết tha với quê hương đất nước của một trong những đại thi hào cuối cùng của nền văn học trung đại Việt Nam.

Phân tích 'Thu vịnh' - Mẫu 6: Khám phá tinh hoa thơ thu trong bộ ba kiệt tác của Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến - bậc thầy thơ Nôm - đã dệt nên bức tranh thu quê hương qua 'Thu vịnh' với những vần thơ tinh tế đạt đến độ 'thần thơ'. Bài thơ mở ra bằng khung trời thu 'xanh ngắt mấy từng cao', nơi cần trúc 'lơ phơ' đong đưa trong làn gió heo may - hình ảnh đã trở thành biểu tượng bất hủ của mùa thu Bắc Bộ.
Hai câu luận đưa ta vào không gian huyền ảo với 'nước biếc' phủ sương khói và ánh trăng thu lọt qua 'song thưa'. Đặc biệt, hình ảnh 'hoa năm ngoái' cùng tiếng ngỗng trời vang vọng đã khắc sâu nỗi niềm hoài cổ. Kết thúc bằng nỗi 'thẹn với ông Đào', Nguyễn Khuyến đã bộc lộ tâm sự u uẩn của kẻ sĩ trước thời cuộc, tạo nên chiều sâu tư tưởng cho tác phẩm.
Qua 'Thu vịnh', ta không chỉ thấy một bức tranh thu đẹp đẽ mà còn cảm nhận được tấm lòng yêu nước thầm kín cùng nỗi niềm trăn trở của một đại khoa giữa buổi nước mất nhà tan.

Phân tích 'Thu vịnh' - Mẫu 7: Khám phá vẻ đẹp thi ca và tâm tư Nguyễn Khuyến qua lăng kính mùa thu
Xuân Diệu là thi sĩ của tình yêu, Tố Hữu là nhà thơ của cách mạng, còn Nguyễn Khuyến chính là bậc thầy thơ thu với chùm ba kiệt tác: Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm. Cả ba thi phẩm đều lấy cảm hứng từ khung cảnh đồng chiêm trũng Bình Lục - nơi quê hương bình dị với những ao chuôm, bờ tre bao bọc mái tranh nghèo.
Trong Thu vịnh, Nguyễn Khuyến đã vẽ nên bức tranh thu từ cao xuống thấp, bắt đầu bằng bầu trời 'xanh ngắt mấy từng cao' - sắc xanh đặc trưng trong thơ ông. Hình ảnh 'cần trúc lơ phơ' đong đưa trước làn gió hắt hiu gợi nét động giữa không gian tĩnh lặng, thể hiện tài nghệ 'lấy động tả tĩnh' của thi nhân.
Bức tranh thu tiếp tục với mặt nước biếc phủ làn khói mờ ảo, song thưa mở đường cho ánh trăng vào. Cảnh vật chuyển mình theo thời gian từ trưa đến hoàng hôn rồi đêm về, nhưng vẫn nhất quán trong mạch cảm xúc.
Đến hai câu thực, tâm trạng thi sĩ hiện rõ: 'hoa năm ngoái', 'ngỗng nước nào' - những chi tiết hiện tại lại gợi về quá khứ, thể hiện nỗi niềm u uất. Bài thơ khép lại bằng nỗi 'thẹn với ông Đào', để ngỏ nhiều suy tư về nhân cách kẻ sĩ.
Thu vịnh không chỉ là bức tranh thu đẹp mà còn là tấm gương phản chiếu tâm hồn Nguyễn Khuyến - một tâm hồn thuần khiết, gắn bó máu thịt với quê hương đồng chiêm trũng.

5. Phân tích sâu sắc bài thơ "Thu vịnh" của Nguyễn Khuyến - Bài mẫu tham khảo số 8
Nguyễn Khuyến - bậc thầy thơ Nôm với danh hiệu "Thi sĩ của làng quê Việt Nam", đã để lại một di sản thi ca đồ sộ. Tam thơ thu "Thu điếu", "Thu ẩm", "Thu vịnh" như ba viên ngọc quý, đưa tên tuổi ông lên đỉnh cao văn học trung đại. Trong đó, "Thu vịnh" nổi bật như bức tranh thủy mặc, kết tinh phong cách nghệ thuật độc đáo của thi nhân.
Khổ mở đầu vẽ nên không gian thu thanh khiết:
"Trời thu xanh ngắt mấy từng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu"
Màu xanh thăm thẳm "xanh ngắt" tựa lụa trời được nhuộm màu thuần khiết, gợi nhớ câu "Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt" trong "Thu ẩm". Không gian mở ra nhiều tầng lớp, như những lớp sóng xanh chồng chất. Trên nền trời ấy, vài cành trúc mảnh mai khẽ đung đưa trong làn gió thu hiu hắt. Nghệ thuật "lấy động tả tĩnh" qua từ láy "lơ phơ" càng tô đậm nét cô liêu, gợi nhớ hình ảnh "Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo".
Hai câu thực tiếp tục mạch cảm xúc:
"Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào"
Màu nước thu xanh biếc phủ lớp sương mờ ảo, tạo nên khung cảnh hư ảo như chốn bồng lai. Trong đêm tịch mịch, ánh trăng len qua song cửa, trở thành tri kỷ của thi nhân. Cảnh vật bừng sáng dưới ánh trăng huyền ảo, thể hiện tâm hồn phóng khoáng đón nhận cái đẹp.
Hai câu luận đưa vào chiều sâu tâm trạng:
"Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?"
Những đóa hoa thu bên giậu gợi cảm giác thời gian ngưng đọng, phảng phất nỗi niềm hoài cổ. Tiếng ngỗng trời lạc đàn như tiếng lòng thổn thức trước vận nước. Câu hỏi tu từ "ngỗng nước nào?" chất chứa nỗi trăn trở khôn nguôi về thời thế.
Khép lại là hai câu kết đầy chiêm nghiệm:
"Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào"
Thi hứng trào dâng nhưng lại ngập ngừng trước tấm gương Đào Tiềm - bậc cao sĩ khí tiết. Nỗi thẹn ấy phải chăng là sự tự vấn lương tâm của kẻ sĩ trước thời cuộc? Một nỗi niềm u uẩn về thân phận "thân nhàn mà tâm bất nhẫn".
Bằng nghệ thuật sử dụng ngôn từ điêu luyện, bút pháp chấm phá tài tình cùng các biện pháp tu từ đặc sắc, Nguyễn Khuyến đã tạo nên kiệt tác vừa là bức tranh thu tuyệt mỹ, vừa là tấm gương phản chiếu tâm trạng u hoài của kẻ sĩ trước vận nước. Đó chính là sự kết tinh của tình yêu thiên nhiên gắn liền với nỗi niềm dân tộc.

6. Phân tích tinh tế bài thơ "Thu vịnh" của Nguyễn Khuyến - Bài mẫu phân tích chuyên sâu số 9
Nguyễn Khuyến - bậc thầy thơ Nôm, đã dệt nên những vần thơ bất hủ về làng quê Việt Nam với một phong cách độc đáo không lẫn vào đâu được. Trong dòng chảy văn học trung đại, ông nổi lên như một hiện tượng đặc biệt khi đưa cảnh sắc nông thôn Bắc Bộ vào thơ một cách tự nhiên mà đầy tinh tế: từ những đêm trăng huyền ảo, ngôi chùa cổ kính, dòng sông uốn lượn đến ngõ trúc quanh co, mái nhà tranh thấp thoáng. Nhưng có lẽ đẹp nhất, trong trẻo nhất vẫn là bức tranh thu với gam màu thanh nhã, được vẽ bằng tất cả tình yêu thiết tha dành cho quê hương. Nhà thơ Xuân Diệu từng nhận định: "Nguyễn Khuyến tỏa sáng nhất với thơ Nôm, mà đỉnh cao chính là tam thơ thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh".
Đọc tam thơ thu của Nguyễn Khuyến, ta không chỉ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp thuần khiết của mùa thu làng quê, mà còn thấu hiểu tâm sự sâu kín của một trí thức luôn đau đáu nỗi niềm dân tộc.
Thu vịnh - khúc ngâm về mùa thu, khác với Thu điếu (mùa thu câu cá) và Thu ẩm (mùa thu uống rượu) ở điểm nhìn nghệ thuật và sắc thái cảm xúc. Như lời Xuân Diệu tinh tế nhận xét: "Trong ba bài, Thu vịnh mang hồn thu đậm nét nhất - cái thanh, cái trong, cái nhẹ, cái cao - chứa đựng cái thần của mùa thu".
Cái thần thu ấy hiện lên qua bầu trời "xanh ngắt mấy tầng cao" - một không gian trong vắt, thăm thẳm, gợi chiều cao vô tận. Màu "xanh ngắt" không đơn thuần là sắc màu, mà còn là chiều kích tâm hồn của một nho sĩ thanh cao, đã chọn cách rời xa chốn quan trường để giữ trọn khí tiết.
Bức tranh thu được phác họa từ cao xuống thấp: từ bầu trời xanh thẳm đến "cần trúc lơ phơ" mềm mại, rồi mặt nước phủ khói sương hư ảo, và cuối cùng là ánh trăng len qua song cửa. Cách phối cảnh ấy thể hiện sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên - một chủ đề xuyên suốt trong thơ Nguyễn Khuyến sau khi cáo quan về ở ẩn.
Hai câu luận đưa ta vào chiều sâu tâm trạng:
"Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?"
Hình ảnh hoa năm ngoái gợi nỗi bâng khuâng về dòng chảy thời gian, trong khi tiếng ngỗng lạc loài như tiếng lòng thổn thức trước vận nước. Đó chính là nỗi niềm "thân nhàn mà tâm bất nhẫn" của kẻ sĩ trước thời cuộc.
Khép lại bài thơ là nỗi thẹn với Đào Tiềm - bậc cao sĩ đời Tấn. Không phải thẹn vì tài thơ, mà thẹn vì chưa đạt được cái khí tiết cứng cỏi của người xưa. Đó là nỗi day dứt của một trí thức luôn canh cánh nỗi niềm dân nước, dù đã lui về ẩn dật.
Qua Thu vịnh, Nguyễn Khuyến không chỉ tạo nên kiệt tác về mùa thu làng quê Việt Nam, mà còn gửi gắm tâm sự u uẩn của kẻ sĩ trước thời thế. Bài thơ như tấm gương phản chiếu vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao khiết của một trong những nhà thơ lớn nhất nền văn học trung đại nước nhà.

7. Phân tích sâu sắc bài thơ "Thu vịnh" của Nguyễn Khuyến - Bài mẫu phân tích chuyên sâu số 10
"Thu vịnh" của Nguyễn Khuyến - kiệt tác trong chùm ba bài thơ thu (Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm) - là bức tranh thủy mặc về mùa thu Bắc Bộ đạt đến độ tinh tế hiếm có. Bài thơ không chỉ khắc họa cảnh sắc đặc trưng của mùa thu làng quê mà còn ẩn chứa tâm tư sâu kín của thi nhân.
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
Như lời nhận xét tinh tế của Xuân Diệu, "Thu vịnh" mang trọn cái hồn thu với vẻ thanh cao, nhẹ nhàng mà sâu lắng. Bầu trời "xanh ngắt mấy tầng cao" mở ra không gian bao la, trong khi "cần trúc lơ phơ" khẽ đung đưa tạo nét chấm phá đầy thi vị. Màu "nước biếc" phủ khói sương cùng ánh trăng len qua song cửa gợi khung cảnh hư ảo mà gần gũi.
Hai câu luận đưa người đọc vào chiều sâu tâm trạng: "hoa năm ngoái" gợi nỗi hoài niệm, còn tiếng ngỗng trời lạc loài như tiếng lòng thổn thức trước thời cuộc. Đặc biệt, nỗi "thẹn với ông Đào" (Đào Tiềm) phản ánh nhân cách cao khiết của Nguyễn Khuyến - một trí thức luôn day dứt giữa lý tưởng và hiện thực.
Qua "Thu vịnh", Nguyễn Khuyến không chỉ tạo nên kiệt tác về mùa thu Việt Nam, mà còn gửi gắm tâm sự u uẩn của kẻ sĩ trước thời thế, thể hiện một nhân cách lớn trong văn học trung đại.

8. Khám phá tinh hoa bài thơ "Thu vịnh" của Nguyễn Khuyến - Bài phân tích mẫu mực số 1
Mùa thu - nguồn thi hứng bất tận trong thi ca, mang vẻ đẹp khi mơ màng, khi man mác buồn, khơi gợi những rung cảm sâu lắng. Nguyễn Khuyến với chùm thơ thu bất hủ: Thu điếu, Thu vịnh, Thu ẩm đã khắc họa trọn vẹn hồn thu đất Bắc. Trong đó, Thu vịnh hiện lên như bức tranh thủy mặc với cảnh sắc làng quê giản dị mà đậm chất thi vị.
Không đơn thuần là ngâm vịnh mùa thu, bài thơ ẩn chứa nỗi niềm tâm sự của một trí thức yêu nước. Hai câu mở đầu:
“Trời thu xanh ngắt mấy từng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu”
vẽ nên khung trời thu cao vợi với sắc xanh ngắt đặc trưng, điểm xuyết hình ảnh cần trúc mềm mại đung đưa trong làn gió thu se lạnh. Phải chăng đó cũng là tâm trạng bâng khuâng của thi nhân?
Bức tranh thu tiếp tục được tô điểm bằng:
“Nước biếc trông như tảng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào”
Nghệ thuật đảo trang tài tình khiến cảnh vật như hòa quyện giữa thực và ảo. Ánh trăng vàng len lỏi qua song cửa trở thành tri kỷ của thi nhân trong đêm thu vắng lặng.
“Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?”
gợi nỗi hoài niệm xa xăm. Tiếng ngỗng trời chợt điểm xuyết cho không gian tĩnh lặng, đánh thức những suy tư thầm kín.
Kết thúc bài thơ là nỗi day dứt:
“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”
Nguyễn Khuyến thẹn vì chưa được như Đào Tiềm - dám từ bỏ chốn quan trường để giữ trọn khí tiết. Nhưng chính sự chân thành ấy lại làm nên vẻ đẹp nhân cách đáng trọng.
Thu vịnh không chỉ là bức tranh thu tuyệt mỹ mà còn là tấm gương phản chiếu tâm hồn Nguyễn Khuyến - một trí thức nặng lòng với non sông nhưng day dứt vì thời thế.

Hình ảnh minh họa đặc sắc (Nguồn: internet)
9. Phân tích sâu sắc bài thơ "Thu vịnh" của Nguyễn Khuyến - góc nhìn mới
Nguyễn Khuyến - bậc thầy thơ Nôm với chùm ba bài thơ thu bất hủ: Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh, đã đưa ông lên đỉnh cao của thi ca viết về mùa thu Việt Nam. Thu vịnh như bức tranh thủy mặc vẽ nên hồn quê đồng chiêm trũng Bình Lục.
Hai câu mở đầu:
"Trời thu xanh ngắt mấy từng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu"
khắc họa bầu trời thu thăm thẳm với cần trúc mảnh mai đong đưa trong gió. Sự tương phản giữa cái mênh mông của trời cao và cái mong manh của cần trúc tạo nên nét đặc trưng của thu quê.
Hai câu thực:
"Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào"
đưa ta từ khung cảnh ban ngày sang đêm thu với mặt nước phủ sương và ánh trăng vàng lọt qua song cửa. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đạt đến độ tinh xảo.
Hai câu luận:
"Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không, ngỗng nước nào?"
chuyển mạch từ cảnh sang tình, gợi nỗi hoài niệm xa xăm. Tiếng ngỗng trời như xé tan không gian tĩnh lặng, đánh thức nỗi niềm thời thế.
Kết bài là nỗi day dứt:
"Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào"
thể hiện tâm trạng u uất của nhà nho trước thời cuộc, nỗi hổ thẹn vì chưa giữ trọn khí tiết như Đào Tiềm.
Thu vịnh không chỉ là kiệt tác về mùa thu mà còn là tấm gương phản chiếu tâm hồn Nguyễn Khuyến - một trí thức đau đáu nỗi niềm dân nước.

Bức họa minh họa đầy nghệ thuật (Nguồn: internet)
10. Khám phá tinh tế bài thơ "Thu vịnh" của Nguyễn Khuyến - góc nhìn đa chiều
Bài thơ "Thu vịnh" của Nguyễn Khuyến như bức tranh thủy mặc vẽ nên hồn thu Bắc Bộ qua những hình ảnh giản dị mà đầy thi vị: từ bầu trời xanh ngắt, cần trúc lơ phơ đến mặt nước khói sương, ánh trăng vàng và tiếng ngỗng trời xa vắng. Mỗi nét vẽ đều thấm đẫm tình yêu quê hương cùng nỗi niềm u uẩn của thi nhân.
Hai câu mở đầu:
"Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu"
khắc họa không gian thu cao vợi với màu xanh đặc trưng và hình ảnh cần trúc mảnh mai đong đưa trong gió nhẹ. Từ láy "lơ phơ" cùng tính từ "hắt hiu" gợi nên nỗi buồn man mác khó tả.
Bức tranh thu tiếp tục được tô điểm bằng:
"Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào"
với nghệ thuật ẩn dụ tinh tế. Ánh trăng trở thành tri kỷ của thi nhân trong đêm thu tĩnh lặng.
Hai câu luận:
"Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào"
đánh thức nỗi hoài niệm xa xăm. Tiếng ngỗng trời như xé tan không gian tĩnh mịch, gợi nỗi cô đơn của kẻ sĩ trước thời cuộc.
Kết thúc bài thơ là nỗi day dứt:
"Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào"
thể hiện tâm trạng đau đáu của nhà nho trước lý tưởng sống, nỗi hổ thẹn vì chưa giữ trọn khí tiết như Đào Tiềm - bậc ẩn sĩ thanh cao thời xưa.
"Thu vịnh" không chỉ là kiệt tác về mùa thu mà còn là tấm gương phản chiếu tâm hồn Nguyễn Khuyến - một trí thức nặng lòng với non sông nhưng day dứt vì thời thế. Bài thơ đã nâng tình yêu thiên nhiên lên thành tình yêu đất nước thiết tha.

Bức họa minh họa tinh tế (Nguồn: internet)
Có thể bạn quan tâm

Hướng dẫn chi tiết cách thêm Textbox vào Excel

Khám phá cách sử dụng hàm tính lãi suất cộng dồn trong Excel để quản lý tài chính một cách hiệu quả và chính xác.

Cách chế biến sườn lợn thơm ngon

Khám phá công thức mảng Array Formulas trong Excel: Hướng dẫn và ví dụ chi tiết

Phương pháp nhập dữ liệu đồng thời vào nhiều Sheet một cách hiệu quả
